Trang chủ

SỰ KIỆN: Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp

 Ngày 17/5, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc sẽ chủ trì Hội nghị “Đồng hành cùng doanh nghiệp”. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ thiết lập kênh thông tin đặc biệt phục vụ Hội nghị này.
Kênh thông tin đặc biệt sẽ liên tục cập nhật các thông tin mới nhất về Hội nghị; kết quả 1 năm thực hiện Nghị quyết 35 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp; các ý kiến, kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp gửi tới Thủ tướng trước thềm Hội nghị; các báo cáo của các bộ ngành, địa phương tại Hội nghị.

 

 

Cộng đồng doanh nghiệp kỳ vọng vào Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp lần thứ hai năm 2017.

 

Việc triển khai đồng bộ các giải pháp của Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương đã có tác động tích cực đến số lượng doanh nghiệp thành lập mới, đầu tư nước ngoài trong những tháng cuối năm 2016 và đầu năm 2017:

1. Về số lượng doanh nghiệp đăng ký mới: Trong năm 2016, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới là 110.100 doanh nghiệp, đạt kỷ lục cao nhất về số lượng từ trước tới nay; số vốn cam kết đưa vào thị trường tăng 48,1% so với cùng kỳ; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 24,1%. Trong 4 tháng đầu năm 2017, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới là 39.580 doanh nghiệp với số vốn đăng ký là 369.635 tỷ đồng, tăng 14% về số doanh nghiệp và tăng 48,9% về số vốn so với cùng kỳ. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động đạt 11.545, tăng 1,9% so với cùng kỳ. Tính đến 20/4/2017, cả nước có khoảng 612 ngàn doanh nghiệp đang hoạt động.

 Về đầu tư nước ngoài, tính đến 31/12/2016 cả nước có 2.613 dự án mới được cấp GCNĐKĐT với tổng vốn đăng ký là 15,81 tỷ USD, tăng 23,3% về số dự án và bằng 96,8% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015. Cả nước có 1.249 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 6,56 tỷ USD, tăng 36,1% về số dự án và bằng 84,4% về vốn tăng thêm so với cùng kỳ. Có 5.970 doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần với tổng vốn đầu tư là 4,51 tỷ USD.

Riêng trong 4 tháng đầu năm 2017 cả nước có 734 dự án mới được cấp GCNĐKĐT với tổng vốn đăng ký là 4,88 tỷ USD, bằng 96% so với cùng kỳ năm 2016; có 345 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 4,36 tỷ USD, tăng 241,8 % so với cùng kỳ năm 2016 và 1687 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà ĐTNN với tổng giá trị góp vốn là 1,35 tỷ USD, tăng 106,8% so với cùng kỳ 2016. Tính chung trong 4 tháng đầu năm 2017, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần là 10,95  tỷ USD, tăng 40,5% so với cùng kỳ năm 2016.

Các con số nêu trên minh chứng cho niềm tin của doanh nghiệp trong và ngoài nước vào môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam đang được cải thiện rõ rệt.

2. Về đóng góp tổng vốn đầu tư toàn xã hội của khu vực tư nhân: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2016 theo giá hiện hành ước tính đạt 1.485 nghìn tỷ đồng, tăng 8,7% so với năm 2015 và bằng 33% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 557,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,6% tổng vốn và tăng 7,2%; vốn khu vực ngoài Nhà nước đạt 579,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 39% và tăng 9,7%; vốn khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 347,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,4% và tăng 9,4%. Như vậy, mục tiêu này bước đầu đạt được so với mục tiêu năm 2020, khu vực tư nhân đóng góp khoảng 49% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.

3. Năng suất lao động xã hội của toàn nền kinh tế năm 2016 theo giá hiện hành ước tính đạt 84,5 triệu đồng/lao động (tương đương khoảng 3.853 USD/lao động). Tính theo giá so sánh năm 2010, năng suất lao động toàn nền kinh tế năm 2016 ước tính tăng 5,31% so với năm 2015. 

Nhiều nhiệm vụ trong 5 nhóm giải pháp trong Nghị quyết 35 đã được triển khai, cụ thể như sau:

1. Về nhóm giải pháp cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp

Chính phủ đã ban hành 50 nghị định về điều kiện đầu tư kinh doanh theo Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp, trong đó tập trung cắt giảm nhiều thủ tục, giấy phép, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Một số lĩnh vực được cải thiện rõ rệt về thủ tục hành chính. Điển hình là:

- Thủ tục về thuế và hải quan đã được đẩy mạnh thông qua việc áp dụng  hiện đại hoá, giảm thủ tục, thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Hệ thống khai thuế qua mạng, nộp thuế điện tử đã được triển khai tại 63 Cục thuế và 100% chi cục thuế trực thuộc. Doanh nghiệp kê khai điện tử đạt tỷ lệ 99,64 % và được hỗ trợ nộp thuế xuất nhập khẩu bằng phương thức điện tử. Số thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực thuế năm 2016 đã giảm 85 thủ tục so với 2015…

- Cơ chế một cửa quốc gia của Việt Nam đã kết nối kỹ thuật thành công với 04 nước ASEAN (Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Singapore) để trao đổi Giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D cho hàng hóa xuất khẩu có xuất xứ ASEAN. Cơ chế một cửa quốc gia đã kết nối chính thức với 11/14 Bộ. Ngoài thủ tục thông quan hàng hóa (Bộ Tài chính), 37 thủ tục hành chính của 09 Bộ còn lại đã được thực hiện thông qua Cơ chế một cửa quốc gia. Tổng số bộ hồ sơ hành chính đã được xử lý trên cổng là 264 nghìn bộ hồ sơ, với sự tham gia của hơn 8,2 nghìn doanh nghiệp.

- Đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử đã được đưa vào vận hành, đáp ứng yêu cầu dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, góp phần giảm thời gian, chi phí thành lập doanh nghiệp và xây dựng một hệ thống đăng ký kinh doanh minh bạch, hạn chế tối đa tiêu cực có thể phát sinh từ sự can thiệp của con người. Trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp, hiện có 95/115 quy trình đạt tiêu chuẩn dịch vụ công trực tuyến mức độ 4. Tỷ lệ hồ sơ được chấp thuận ngay lần đầu tiên đạt gần 86%, tỷ lệ hồ sơ trả kết quả đúng hẹn đạt gần 90%.

Hệ thống tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ do Văn phòng Chính phủ điều hành đã tiếp nhận tổng cộng 586 phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp, trong đó, Văn phòng Chính phủ đã phân loại, chuyển 489 phản ánh, kiến nghị tới các Bộ ngành, địa phương để xem xét, xử lý theo thẩm quyền. Đến nay, đã có 372 phản ánh, kiến nghị đã được các Bộ ngành, địa phương xử lý và trả lời doanh nghiệp, đạt tỷ lệ 76,1%. Đối với 97 phản ánh, kiến nghị còn lại thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ tướng Chính phủ hoặc phải giải quyết theo quy trình khiếu nại, tố cáo cũng đã được Văn phòng Chính phủ trình Thủ tướng Chính phủ giải quyết, cũng như xử lý theo quy trình khiếu nại, tố cáo theo quy định. 

Mặc dù vậy, phản ánh từ cộng đồng doanh nghiệp cho thấy vẫn tồn tại khoảng cách giữa chính sách và thực thi, các doanh nghiệp vẫn còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc trong các thủ tục hành chính, đầu tư kinh doanh gây phiền hà, tồn thời gian, chi phí và đâu đó làm cho doanh nghiệp mất niềm tin.

2. Về nhóm giải pháp tạo dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo

Tinh thần quyết tâm thúc đẩy khởi nghiệp, lập nghiệp của Thủ tướng Chính phủ không chỉ được các cơ quan nhà nước, địa phương hưởng ứng mạnh mẽ mà đã lan toả sang cả khu vực tư nhân. Trong năm 2016, hàng trăm hội nghị, hội thảo, sự kiện, cuộc thi về khởi nghiệp được tổ chức; 28 không gian làm việc chung và sáng tạo ra đời, đa số của tổ chức tư nhân; mạng lưới các nhà đầu tư cá nhân cho khởi nghiệp bắt đầu được hình thành; nhận thức của cả xã hội về khởi nghiệp đã được nâng lên đáng kể.

Các chính sách, biện pháp hỗ trợ DNNVV, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo đã được rà soát, đánh giá và đề xuất lồng ghép vào Luật Hỗ trợ DNNVV. Việc sửa đổi, bổ sung chức năng và nhiệm vụ của Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV, Quỹ Phát triển DNNVV, Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo… đang được các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước phối hợp, khẩn trương xây dựng để tằng cường nguồn vốn cho DNNVV, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; việc rà soát, sửa đổi, bổ sung các chính sách đầu tư đối với doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã được thực hiện. Các Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội doanh nghiệp đã có nhiều chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV, doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo…

Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo đang được Bộ Khoa học và Công nghệ triển khai. Các địa phương như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bà Rịa-Vũng Tàu, Điện Biên, Thừa Thiên-Huế, Phú Yên, Cần Thơ, Sóc Trăng… đã xây dựng và đang triển khai kế hoạch hỗ trợ khởi nghiệp một cách tích cực. Đề án hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp đang được Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu, xin ý kiến để sớm trình Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, các nội dung về khởi nghiệp đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo đưa vào chương trình đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học.

3. Về nhóm giải pháp bảo đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận nguồn lực và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 58/2016/QĐ-TTg theo hướng tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, dự kiến đến 2020 chỉ còn 103 DNNN, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực: quốc phòng an ninh, xổ số, truyền tải điện, in đúc tiền, công ích, xuất bản.... Quyết định nêu rõ 137 doanh nghiệp sẽ thực hiện cổ phần hóa đến năm 2020, trong đó bao gồm nhiều doanh nghiệp lớn, hoạt động trong những ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như: sản xuất, kinh doanh bán lẻ điện, hóa chất cơ bản, thuốc lá, khai thác khoáng sản quy mô lớn, dịch vụ viễn thông, tài chính ngân hàng…Việc thực hiện quyết liệt công tác cổ phần hoá DNNN sẽ mở ra thị trường, nhường chỗ cho khu vực tư nhân tham gia.

- Trong lĩnh vực khoa học công nghệ, một số nghị định về kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo lường, chuẩn đo lường; về kinh doanh mũ bảo hiểm cho người đi xe mô tô, xe máy... Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi) đã được hoàn thiện, chờ phê duyệt. Nghị định về doanh nghiệp khoa học công nghệ đã được sửa đổi theo hướng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và tạo điều kiện thuận lợi nhất trong việc đăng ký, chứng nhận và hoạt động của doanh nghiệp khoa học công nghệ.

- Về tiếp cận vốn, để duy trì lãi suất hợp lý, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện các biện pháp cân đối vốn duy trì ổn định lãi suất huy động, tiết giảm chi phí hoạt động, nâng cao hiệu quả kinh doanh để có điều kiện giảm lãi suất cho vay. Mặt bằng lãi suất huy động ổn định từ cuối tháng 9/2016. Một số TCTD lớn đã điều chỉnh giảm từ 0,3-0,5%/năm lãi suất huy động và có xu hướng giảm khoảng 0,5-1%/năm. Hiện lãi suất cho vay phổ biến 6-9%/năm đối với ngắn hạn; 9-11%/năm đối với trung và dài hạn; đối với nhóm khách hàng tốt, lãi suất cho vay ngắn hạn từ 4-5%/năm. Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các TCTD tập trung nghiên cứu đề xuất các chương trình nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn và các dịch vụ ngân hàng phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả; khuyến khích công bố những gói sản phẩm hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là DNNVV. Một số ngân hàng thương mại (NHTM) đã chủ động xây dựng các chương trình tín dụng ưu đãi lãi suất để hỗ trợ doanh nghiệp.

Tuy nhiên, theo phản ánh từ phía cộng đồng doanh nghiệp vấn đề tiếp cận vốn còn rất nhiều khó khăn.

4. Về nhóm giải pháp giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp

- Để rà soát các quy định pháp luật về đất đai theo hướng điều chỉnh giảm tiền thuê đất, chi phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất và các chi phí khác của doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã báo cáo Chính phủ cho triển khai biện pháp mở rộng phạm vi áp dụng phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất để xác định nghĩa vụ tài chính về tiền thuê đất cho doanh nghiệp.

- Việc điều chỉnh mức thu phí sử dụng đường bộ, phí BOT: 15 Thông tư đã được ban hành để điều chỉnh mức thu phí của 29 trạm thu phí, vượt 10 trạm so với chỉ tiêu được Thủ tướng Chính phủ giao. Tuy nhiên, vẫn còn một số trạm thu phí còn chưa giảm được do nhà đầu tư không đồng ý với phương án giảm phí do ảnh hưởng đến việc trả nợ, trả lãi vay như đã tính toán trong hợp đồng. Trong thời gian tới, Bộ Giao thông Vận tải cần tiếp tục tập trung đẩy nhanh công tác quyết toán chi phí đầu tư các dự án BOT, cập nhật lại các yếu tố đầu vào như cơ chế kiểm tra, kiểm soát lưu lượng phương tiện, doanh thu thực tế để có cơ sở tính thời gian hoàn vốn và mức phí của các dự án đầu tư theo hình thức BOT; cần khắc phục ngay công tác quản lý dự án, vị trí lắp đặt trạm thu phí, mức thu phí… và công khai thông tin liên quan, đảm bảo minh bạch. Ngoài ra, Bộ Giao thông Vận tải cũng đã ban hành Thông tư quy định mức giá tối đa dịch vụ sử dụng đường bộ các dự án đầu tư xây dựng đường bộ để kinh doanh do Bộ quản lý.

- Về các khoản phụ thu bất hợp lý đối với hàng xuất nhập khẩu, Bộ Giao thông Vận tải đã chủ trì phối hợp với các đơn vị liên quan lập tổ công tác liên ngành về việc các hãng tàu nước ngoài thu các khoản phụ thu bất hợp lý đối với hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam, đồng thời đề xuất xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định về quản lý, giám sát đối với giá, phụ thu ngoài giá dịch vụ vận chuyển bằng đường biển của doanh nghiệp vận tải biển. Các nội dung quy định về quản lý cước vận tải biển và phụ phí theo cước vận tải biển đã được đưa vào Bộ luật Hàng hải Việt Nam và Nghị định số 146/2016/NĐ-CP (có hiệu lực từ 1/7/2017) nhằm tạo sự đồng thuận giữa hãng tàu và chủ hàng xuất nhập khẩu trong việc ký kết hợp đồng vận chuyển đảm bảo công khai, minh bạch các khoản thu, ngăn chặn tình trạng tuỳ tiện ép giá đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiện nay.

- Đối với việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 218/2013/NĐ-CP về thuế thu nhập doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã có văn bản trình Thủ tướng Chính phủ trước mắt chưa thực hiện và đã được đồng ý.

- Về điều chỉnh lương tối thiểu vùng, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 153/2016/NĐ-CP ngày 14/11/2016 quy định mức lương tối thiểu vùng áp dụng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017), tăng từ 180 nghìn đồng đến 250 nghìn đồng so với hiện hành năm 2016, mức bình quân tăng 7,3%. Đây là mức điều chỉnh tăng thấp nhất trong 05 năm gần đây. Các chính sách thuộc lĩnh vực bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và quỹ bảo hiểm thất nghiệp cũng được rà soát, một số nội dung được điều chỉnh như điều chỉnh giảm mức đóng vào Quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, quy định người sử dụng lao động hàng tháng đóng tối đa 1% trên quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, thay vì mức đóng cố định 1%; đề xuất giảm tỷ lệ đóng vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và quỹ bảo hiểm thất nghiệp.

5. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp

- Về công tác thanh tra chuyên ngành, kiểm tra và kiểm toán, Thanh tra Chính phủ đã quán triệt giảm mật độ và hạn chế chồng chéo trong hoạt động thanh tra tại các doanh nghiệp; tăng cường công tác thanh tra, phát hiện xử lý vi phạm, góp phần lành mạnh môi trường đầu tư kinh doanh. Định kỳ hàng quý, Thanh tra Chính phủ tổ chức họp báo công bố kết quả công tác thanh tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng và trả lời câu hỏi dư luận quan tâm. 

 Về nhiệm vụ thực hiện thanh tra, kiểm tra đúng quy định của pháp luật (không quá một lần/năm), một số địa phương như Đà Nẵng, Hà Nội, Lào Cai, Quảng Bình, Đắk Lắc, Sóc Trăng … đã ban hành văn bản đôn đốc, hướng dẫn trong việc phối hợp giữa các đơn vị trực thuộc, còn hầu hết các địa phương chưa có hướng dẫn cụ thể.

- Về đảm bảo an ninh kinh tế, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, Bộ Công an chú trọng nắm tình hình, thu thập thông tin hỗ trợ doanh nghiệp trong lựa chọn đối tác nước ngoài, đã tiếp nhận 86 yêu cầu xác minh đối tác, phát hiện 13 trường hợp có dấu hiệu nghi vấn lừa đào, 11 trường hợp là đơn vị có năng lực tài chính và công nghệ tiên tiến đầu tư vào Việt Nam, kịp thời ngăn chặn hoạt động lừa đảo, tội phạm kinh tế. Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển, Bộ đã chỉ đạo công an các đơn vị địa phương triệt phá các băng nhóm tội phạm, trong đó phát hiện nhiều nhóm tội phạm nguy hiểm “núp bóng” công ty, doanh nghiệp để hoạt động phạm tội, ảnh hưởng xấu đến môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp. Năm 2016, lực lượng công an đã phát hiện, xử lý 16.823 vụ vi phạm về trật tự quản lý kinh tế.

Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRƯỚC HỘI NGHỊ

Ông Dương Tuấn Anh, Chủ tịch Hiệp hội DN tỉnh Thừa Thiên - Huế cho biết, Hiệp hội sẽ tiếp tục kiến nghị Chính phủ nghiên cứu chỉ đạo, hỗ trợ thành lập các trung tâm hỗ trợ DN thành một hệ thống toàn quốc từ Trung ương đến địa phương.

Theo ông, Nghị quyết 35/NQ-CP đã đề cập một cách khá toàn diện các chính sách, trách nhiệm của Bộ, ngành, địa phương để hỗ trợ DN. Tuy nhiên, nội dung về chỉ đạo thành lập và hoạt động của các trung tâm hỗ trợ DN vẫn chưa được thực hiện trong thực tế.

Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ cho DN vẫn thiên về ưu đãi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, ít tạo điều kiện cho DN tư nhân, DN vừa và nhỏ Việt Nam phát triển.

Ông Dương Tuấn Anh cho rằng, việc thu hút các DN lớn từ nước ngoài vào đầu tư là rất cần thiết, nhưng khi ký kết hợp tác cần đưa điều kiện các DN địa phương có thể liên kết làm được gì, người lao động địa phương tham gia được gì...

“Do vậy, rất cần một Trung tâm có tính pháp lý cao theo quy định của Chính phủ để làm nhiệm vụ kết nối và khi mời các nhà đầu tư vào đầu tư tại địa phương” – ông Dương Tuấn Anh nói.

Bên cạnh đó, đại diện Hiệp hội DN Thừa Thiên - Huế cũng kiến nghị Chính phủ hoàn chỉnh và sớm trình Quốc Hội thông qua Luật hỗ trợ DN nhỏ và vừa, bởi đây là văn bản luật thiết thực mà cộng đồng DN nhỏ và vừa của cả nước đang rất trông chờ được sự hỗ trợ các điều kiện để phát triển.

Ông cho biết thêm, “Hiệp Hội chúng tôi đã nhiều lần kiến nghị là dự thảo cuối cùng mà Chính phủ trình Quốc hội cần tiếp thu ý kiến của cộng đồng DNNVV trong nước để bổ sung những quy định thật cụ thể, có tính khả thi cao, tránh những quy định quan tâm chung chung cần có nhiều cơ quan khác hướng dẫn với nhiều thủ tục rườm rà, khó thực hiện”.

Ông Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội DN nhỏ và vừa Việt Nam cho rằng, mặc dù Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách tháo gỡ và tạo điều kiện cho doanh nghiệp, tuy nhiên khâu thực thi vẫn là khâu yếu nhất.

Điều này thể hiện ở sự thờ ơ của những người thừa hành công vụ không hướng dẫn hoặc hướng dẫn không đầy đủ cho doanh nghiệp, tìm cách bắt lỗi doanh nghiệp, quan liêu, chưa coi doanh nghiệp là đối tượng phục vụ.

Theo ông Thân, chính vì sự yếu kém trong khâu thực thi đã dẫn đến nếu doanh nghiệp muốn được việc thì phải “chung chi” theo kiểu “của công chia ba, của nhà chia đôi”, đây là vấn đề tương đối phổ biến.

Từ phía doanh nghiệp, chạy theo xu thế kinh doanh bằng “quan hệ” thay thế cho năng lực yếu kém của mình nên đã chủ động “chi ngầm” để có được các thuận lợi trong kinh doanh; một số doanh nghiệp do bị sức ép “đòi hỏi” từ phía cán bộ, công chức nên phải “chi ngầm” để được việc.

Để khắc phục hiện tượng này phải xuất phát từ cả hai phía là cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp. Chỉ như vậy mới tạo nên một môi trường kinh doanh bình đẳng, an toàn và bền vững.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần phải tạo thói quen ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao văn hóa kinh doanh, với sứ mệnh phát triển sản xuất kinh doanh làm giàu chân chính là yêu nước, thực hiện nói không với tiêu cực, chủ động tăng cường năng lực quản trị, chung tay cùng với Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực trong kinh doanh.

Đồng thời, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cần tiếp tục có giải pháp tăng cường kỷ luật và trách nhiệm hướng dẫn của công chức khi tiếp xúc với doanh nghiệp, nêu cao tinh thần lấy doanh nghiệp làm trọng tâm phục vụ - Chủ tịch Hiệp hội DN nhỏ và vừa Việt Nam đề nghị.

Theo Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc, một năm sau Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp lần thứ nhất năm 2016, 75% doanh nghiệp đánh giá các cơ quan chính quyền có chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, gần 30% doanh nghiệp đánh giá chuyển biến còn chưa đạt yêu cầu.

Môi trường đầu tư kinh doanh còn nhiều khó khăn, nhưng kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp 2016 đã có khởi sắc hơn và niềm tin của doanh nghiệp vào triển vọng kinh doanh tốt hơn năm 2015. Cụ thể, 48% doanh nghiệp dân doanh cho biết sẽ mở rộng quy mô kinh doanh trong 2 năm tới. Tỷ lệ trong khu vực FDI cũng tương tự.

“Năm qua đã có những đột phá về tư duy, quan điểm, cách thức hỗ trợ doanh nghiệp. Tuy nhiên, để chuyển tư duy, quan điểm, cách thức trở thành hành động cụ thể trong thực tiễn cần độ trễ nhất định, nhiều vướng mắc liên quan tới pháp luật chứ không chỉ trong điều hành, nên cần nhiều thời gian hơn”, ông Lộc nói.

Đặc biệt, đại diện VCCI cho biết theo cam kết của chính quyền các địa phương thì tới năm 2020, cả nước sẽ có khoảng 1,4 triệu doanh nghiệp. Như vậy, mục tiêu 1 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả vào năm 2020 mà Chính phủ đề ra là hoàn toàn có thể đạt được. 

Ông Vũ Tiến Lộc cũng cho biết thêm, trong số 320 kiến nghị doanh nghiệp nêu tại hội nghị năm 2016 và 100 kiến nghị gửi bổ sung sau đó, phần lớn đã được giải quyết. Số còn lại đang được nghiên cứu giải quyết, nhất là những kiến nghị liên quan tới quy định của pháp luật cần sửa đổi.

Hiện, VCCI đã nhận được khoảng 200 kiến nghị của các doanh nghiệp gửi tới Hội nghị năm nay, liên quan tới nhiều vấn đề. Chẳng hạn, mặc dù nhiều ngân hàng giảm lãi suất, nhưng các doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận nguồn tín dụng.

Nghị quyết 35 yêu cầu chỉ thanh tra, kiểm tra 1 năm 1 lần, nhưng thực tế doanh nghiệp vẫn bị thanh tra, kiểm tra khá nhiều, có doanh nghiệp bị tới 6,7 lần một năm. Trong số các doanh nghiệp bị thanh tra, kiểm tra nhiều lần, thì có một nửa nói rằng việc thanh tra, kiểm tra là chồng chéo.

Theo ông Lộc, việc thực hiện kiến nghị giảm chi phí cho các DN như: Giảm lãi suất, tiếp cận tín dụng, bảo hiểm, logistic... vẫn là một yêu cầu quan trọng. Bên cạnh đó DN cũng kiến nghị về vấn đề thủ tục phá sản DN; giải quyết tranh chấp; thanh tra, kiểm tra...

Ông Vũ Tiến Lộc cũng cho rằng, cần hết sức tránh tình trạng cơ quan nhà nước can thiệp quá sâu vào thị trường. “Chúng ta sốt sắng phát triển thị trường, phát triển doanh nghiệp, nhưng phải bằng các biện pháp kinh tế, bằng chính sách để thúc đẩy sự phát triển, chứ không phải nhà nước trực tiếp can thiệp bằng những biện pháp hành chính – điều này có thể gây ra những hậu quả về mặt dài hạn”, ông Lộc kiến nghị.

Theo đó, Chính phủ phục vụ doanh nghiệp nhưng không làm thay doanh nghiệp, làm thay thị trường. Cùng với việc đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, nhà nước cần “thoái sức” ra khỏi các dịch vụ công, tức là đẩy mạnh xã hội hóa việc cung cấp dịch vụ công. Ngay cả trong việc phát triển, hỗ trợ doanh nghiệp, nhà nước cũng không nên không hành chính hóa các hoạt động tư vấn, đào tạo, xúc tiến… mà nên khuyến khích phát triển các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, với sự cạnh tranh của thị trường.

Cổng TTĐT Chính phủ


Tin tức liên quan