Bên cạnh 10 Luật có hiệu lực thi hành từ 01/7/2015 thì rất Nghị định, Thông tư, Quyết định thuộc các lĩnh vực Tài chính-Ngân hàng-Tín dụng; Xuất nhập khẩu; Giáo dục-Đào tạo-Dạy nghề; Đất đai, nhà ở; Chính sách xã hội.. có hiệu lực thi hành trong tháng 7. Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế xin giới thiệu đến độc giả.
Những chính sách có hiệu lực từ tháng 07/2014 16/6
Tháng 07/2014 rất nhiều chính sách mới thuộc các lĩnh vực Tài chính-Ngân hàng-Tín dụng; Xuất nhập khẩu; Giáo dục-Đào tạo-Dạy nghề; Đất đai, nhà ở; Chính sách xã hội.. có hiệu lực thi hành. Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế xin giới thiệu đến độc giả.
▀▄ Tài chính-Ngân hàng-Tín dụng:
|
HƯỚNG DẪN CHI BỒI THƯỜNG, TÁI ĐỊNH CƯ KHI THU HỒI ĐẤT
Theo Thông tư số 74/2015/TT-BTC hướng dẫn việc lập dự toán, sử dụng và thanh quyết toán kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất do Bộ Tài chính ban hành ngày 15/05/2015, nguồn kinh phí bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được trích không quá 2% tổng số kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của dự án, tiểu dự án.
Riêng đối với các dự án, tiểu dự án thực hiện trên địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật về đầu tư; dự án, tiểu dự án xây dựng công trình hạ tầng theo tuyến, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường được lập dự toán kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của dự án, tiểu dự án theo khối lượng công việc thực tế và mức trích không khống chế tỷ lệ 2% tổng kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của dự án, tiểu dự án...
Mức chi tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và cưỡng chế kiểm đếm, cưỡng chế thu hồi đất được thực hiện theo định mức, tiêu chuẩn, đơn giá do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định; đối với các nội dung chi chưa có tiêu chuẩn, định mức, đơn giá, UBND cấp tỉnh có thể căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương quy định cho phù hợp. Các chi phí này bao gồm: Chi kiểm kê, đánh giá đất đai, tài sản thực tế bị thiệt hại; chi cho công tác xác định giá đất; chi thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; chi phí niêm phong, phá, tháo dỡ, vận chuyển tài sản; di chuyển người bị cưỡng chế và người có liên quan ra khỏi khu đất cưỡng chế, chi thuê địa điểm, nhân công, phương tiện bảo quản tài sản và các chi phí thực tế hợp pháp khác...
Thông tư này thay thế Thông tư số 57/2010/TT-BTC ngày 16/04/2010 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015.
THAY ĐỔI PHÍ TẠM ỨNG VỐN KHO BẠC NHÀ NƯỚC
Đây là nội dung đáng chú ý của Thông tư số 62/2015/TT-BTC ngày 05/05/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 162/2012/TT-BTC ngày 03/10/2012 của Bộ Tài chính quy định việc tạm ứng vốn Kho bạc Nhà nước, áp dụng đối với ngân sách Trung ương và ngân sách các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Nếu như trước đây, Bộ Tài chính quy định mức phí tạm ứng vốn Kho bạc Nhà nước được áp dụng thống nhất là 15%/tháng (30 ngày) tính trên số dư nợ tạm ứng, thì theo Thông tư mới này, mức phí tạm ứng vốn chỉ còn là 0,15%/tháng. Bên cạnh đó, mức phí tạm ứng quá hạn cũng được điều chỉnh, sẽ được tính bằng 150% mức phí tạm ứng trong hạn, thay vì được tính bằng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm tính phí tạm ứng quá hạn như quy định cũ.
Thông tư này cũng chỉ rõ, trường hợp tạm ứng quá hạn nhưng được Bộ Tài chính gia hạn thì vẫn được áp dụng phí trong hạn cho đến hết thời hạn được gia hạn. Ngoài ra, Thông tư còn bổ sung nguyên tắc về việc rút vốn tạm ứng, cụ thể: Việc rút vốn tạm ứng có thể thực hiện một lần hoặc nhiều lần, nhưng tổng số vốn tạm ứng của các lần rút vốn không vượt quá số vốn tạm ứng đã được Bộ Tài chính phê duyệt và Kho bạc Nhà nước ký duyệt.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015.
HƯỚNG DẪN LẬP BÁO CÁO TÀI CHÍNH NĂM 2015
Ngày 18/05/2015, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 75/2015/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Điều 128 Thông tư số 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp.
Theo hướng dẫn của Thông tư này, doanh nghiệp thuộc đối tượng phải lập báo cáo tài chính giữa niên độ (báo cáo tài chính quý và bán niên) được lựa chọn lập báo cáo tài chính giữa niên độ năm 2015 theo quy định tại Quyết định số 15/2016/QĐ-BTC ngày 20/3/2006. Riêng báo cáo tài chính của năm 2015 phải tuân theo theo quy định của Thông tư số 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014.
Tương tự như trước đây, Thông tư này cũng quy định trước khi Chuẩn mực kế toán về công cụ tài chính và các văn bản hướng dẫn thực hiện Chuẩn mực kế toán công cụ tài chính được ban hành, khuyến khích đơn vị trình bày và thuyết minh về công cụ tài chính theo quy định của Thông tư số 210/2009/TT-BTC ngày 06/11/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn áp dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế về trình bày báo cáo tài chính và thuyết minh thông tin đối với công cụ tài chính.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 14/07/2015.
NGÂN HÀNG PHẢI ĐIỀU CHỈNH TỶ LỆ SỞ HỮU CỔ PHẦN TRƯỚC 2016
Tổ chức tín dụng (TCTD) phải phối hợp với cổ đông, nhóm cổ đông lập kế hoạch khắc phục việc sở hữu cổ phần vượt giới hạn, đảm bảo chậm nhất ngày 31/12/2015, tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông, nhóm cổ đông có liên quan tại TCTD tuân thủ quy định của pháp luật là nội dung đáng chú ý tại Thông tư số 06/2015/TT-NHNN ngày 01/06/2015 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định thời hạn, trình tự, thủ tục chuyển tiếp đối với trường hợp sở hữu cổ phần vượt giới hạn quy định tại Điều 55 Luật Các TCTD.
Trong thời gian triển khai kế hoạch khắc phục nêu trên, cổ đông, nhóm cổ đông có liên quan đang sở hữu cổ phần vượt giới hạn không được tăng số lượng cổ phiếu nắm giữ tại TCTD dưới mọi hình thức, trừ trường hợp nhận cổ phiếu thưởng hay cổ tức bằng cổ phiếu hoặc mua cổ phiếu phát hành thêm khi TCTD tăng vốn điều lệ thông qua việc chào bán cổ phiếu ra công chúng nhưng phải đảm bảo tỷ lệ sở hữu cổ phần sau khi mua tuân thủ giới hạn quy định.
Cũng theo Thông tư này, từ ngày 15/07/2015, các TCTD không được cấp tín dụng hoặc cấp tín dụng mới cho cổ đông, cổ đông trong nhóm cổ đông có liên quan đang sở hữu cổ phần vượt giới hạn hoặc người có liên quan của các cổ đông đó.
Đặc biệt, sau thời hạn xử lý phần cổ phần vượt giới hạn nêu trên (tức từ năm 2016) hoặc sau thời hạn nêu trong phương án cơ cấu lại đã được Ngân hàng Nhà nước phê duyệt, cổ đông, nhóm cổ đông có liên quan đang sở hữu cổ phần vượt giới hạn chưa được nhận cổ tức bằng tiền mặt đối với số cổ phần nắm giữ vượt giới hạn cho đến khi đảm bảo tuân thủ giới hạn sở hữu cổ phần theo quy định.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/07/2015.
HỢP TÁC XÃ ĐƯỢC DÙNG VỐN NHÀN RỖI CHO VAY TÍN DỤNG NỘI BỘ
Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được sử dụng vốn nhàn rỗi và huy động tiền gửi của thành viên, hợp tác xã thành viên để cho thành viên, hợp tác xã thành viên vay theo hình thức tín dụng nội bộ là nội dung quy định tại Thông tư số 83/2015/TT-BTC ngày 28/05/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ quản lý tài chính đối với hợp tác xã.
Bên cạnh đó, Thông tư cũng cho phép hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được huy động vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn huy động, hoàn trả đầy đủ cho chủ nợ theo cam kết trong hợp đồng. Trong đó, việc huy động vốn phải có phương án được đại hội thành viên hay hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc) phê duyệt theo thẩm quyền được phân cấp tại điều lệ và quy chế quản lý tài chính của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; việc vay vốn của tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải được thực hiện thông qua hợp đồng vay vốn với tổ chức kinh tế, cá nhân cho vay theo quy định của pháp luật.
Về quản lý thanh toán với thành viên và người lao động, bao gồm các khoản tiền công, tiền lãi và các khoản khác, Thông tư quy định, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải mở sổ chi tiết theo dõi từng đối tượng, từng khoản tiền phải trả. Những khoản trả công bằng sản phẩm phải mở sổ chi tiết theo dõi số lượng, đơn giá và số tiền phải trả; đồng thời, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải mở sổ thanh toán với thành viên để thực hiện công khai tài chính và quy chế dân chủ với thành viên; đặc biệt, không được thanh toán qua các đội, tổ.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/07/2015.
SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP ĐƯỢC VAY KHÔNG TÀI SẢN BẢO ĐẢM ĐẾN 3 TỶ ĐỒNG
Theo Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/06/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, tổ chức tín dụng được xem xét cho cá nhân, hộ gia đình cư trú trên địa bàn nông thôn hoặc có hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp; chủ trang trại và doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn nông thôn (trừ doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, khai khoáng, cơ sở sản xuất thủy điện, nhiệt điện)... vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở có bảo đảm hoặc không có bảo đảm bằng tài sản theo quy định của pháp luật.
Trong đó, mức cho vay không có tài sản bảo đảm tối đa là 50 triệu đồng đối với cá nhân, hộ gia đình cư trú ngoài khu vực nông thôn, có hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp; 100 triệu đồng đối với cá nhân, hộ gia đình cư trú tại địa bàn nông thôn hoặc ngoài khu vực nông thôn, có tham gia liên kết trong sản xuất nông nghiệp với hợp tác xã hoặc doanh nghiệp; tối đa 200 triệu đồng đối với cá nhân, hộ gia đình đầu tư cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm; 300 triệu đồng với tổ hợp tác và hộ kinh doanh; 500 triệu đồng với hộ nuôi trồng thủy sản, hộ khai thác hải sản xa bờ có ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với tổ chức chế biến, xuất khẩu trực tiếp và tối đa 03 tỷ đồng đối với liên hiệp hợp tác xã nuôi trồng thủy sản hoặc khai thác hải sản xa bờ, cung cấp dịch vụ phục vụ khai thác hải sản xa bờ...
Các đối tượng được vay không có tài sản bảo đảm nêu trên phải nộp cho tổ chức tín dụng cho vay Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc Giấy xác nhận chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đất không có tranh chấp do UBND cấp xã xác nhận.
Thời hạn cho vay được xác định dựa vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án, phương án sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng. Hết thời hạn cho vay, khách hàng chưa trả được nợ do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng, sẽ được xem xét cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ; đồng thời, sẽ được xem xét cho vay mới khắc phục khó khăn, ổn định sản xuất nếu dự án, phương án sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ khả thi.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/07/2015.
MIỄN GIẤY PHÉP HOẠT ĐỘNG KHI PHÁT ĐIỆN DƯỚI 50KW ĐỂ BÁN
Ngày 29/05/2015, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 10/2015/TT-BCT quy định về trình tự, thủ tục cấp, thu hồi và thời hạn của Giấy phép hoạt động điện lực; trong đó, đáng chú ý là quy định về các trường hợp miễn trừ Giấy phép hoạt động điện lực.
Theo đó, ngoài trường hợp phát điện có công suất để lắp đặt dưới 50kW để bán điện cho tổ chức, cá nhân khác; cá nhân, tổ chức phát điện để tự sử dụng không bán điện cho tổ chức, cá nhân khác; kinh doanh điện tại vùng nông thôn, miền núi, hải đảo mua điện với công suất nhỏ hơn 50kVA từ lưới điện phân phối để bán trực tiếp tới khách hàng sử dụng điện tại nông thôn, miền núi, hải đảo và điều độ hệ thống điện quốc gia, điều hành giao dịch thị trường điện lực cũng không phải có Giấy phép hoạt động điện lực.
Về thời hạn của Giấy phép hoạt động điện lực, Thông tư quy định, Giấy phép có thời hạn khác nhau, tùy thuộc từng lĩnh vực, phạm vi hoạt động, loại công trình điện, thời hạn đăng ký, năng lực, trình độ chuyên môn của đơn vị hoạt động điện lực; nhưng tối đa 05 năm đối với Giấy phép tư vấn chuyên ngành điện lực; 10 năm với Giấy phép phân phối điện; bán buôn, bán lẻ điện; xuất, nhập khẩu điện và tối đa 20 năm đối với Giấy phép truyền tải điện; Giấy phép phát điện của các nhà máy điện lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh theo danh mục được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt...
Trong đó, Giấy phép tư vấn chuyên ngành điện lực có phạm vi hoạt động trong cả nước; Giấy phép phát điện có phạm vi hoạt động cho từng nhà máy điện; Giấy phép bán buôn, bán lẻ điện có phạm vi hoạt động theo phạm vi địa giới hành chính cụ thể và Giấy phép xuất, nhập khẩu điện có phạm vi hoạt động theo phạm vi cụ thể của điểm giao nhận điện năng.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 12/07/2015.
HÀNG QUÁ CẢNH CỦA TRUNG QUỐC ĐƯỢC LƯU LẠI VIỆT NAM TỐI ĐA 120 NGÀY
Theo Thông tư số 11/2015/TT-BCT ngày 04/06/2015 của Bộ Công Thương quy định về quá cảnh hàng hóa của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa qua lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hàng quá cảnh của Trung Quốc được phép lưu lại trên lãnh thổ Việt Nam trong thời hạn tối đa 30 ngày kể từ ngày hoàn thành thủ tục hải quan tại cửa khẩu nhập khẩu. Trường hợp cần thiết chủ hàng có thể đề nghị gia hạn thời gian quá cảnh hàng hóa tối đa 03 lần, mỗi lần không quá 30 ngày.
Hàng hóa quá cảnh nêu trên phải được thực hiện qua các cặp cửa khẩu Lào Cai - Hà Khẩu; Hữu Nghị - Hữu Nghị Quan; Móng Cái - Đông Hưng và Đồng Đăng - Bằng Tường. Ngoài ra, hàng hóa cũng có thể được thực hiện qua các cửa khẩu quốc tế được mở thêm theo thỏa thuận của Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc.
Cũng theo Thông tư này, nếu hàng hóa quá cảnh là phương tiện vận chuyển tự hành thì phương tiện vận chuyển đó phải có biển số đăng ký tạm thời do công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có cửa khẩu nhập khẩu hàng hóa cấp và có Giấy chứng nhận về kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường do ngành giao thông vận tải cấp trước khi được tự hành quá cảnh lãnh thổ Việt Nam. Riêng ô tô các loại chở người từ 09 chỗ ngồi chở xuống không được phép tự hành quá cảnh lãnh thổ Việt Nam.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/07/2015.
TIẾP TỤC CẤP PHÉP NHẬP KHẨU TỰ ĐỘNG MỘT SỐ SẢN PHẨM THÉP TỪ 26/7
Ngày 12/06/2015, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 12/2015/TT-BCT quy định áp dụng chế độ cấp Giấy phép nhập khẩu tự động đối với một số sản phẩm thép; trong đó có sản phẩm sắt hoặc thép không hợp kim ở dạng bán thành phẩm; sắt hoặc thép không hợp kim hoặc cán phẳng, có chiều rộng từ 600mm trở lên, đã phủ, mạ hoặc tráng; sắt hoặc thép không hợp kim ở dạng thanh và que khác; các sản phẩm của thép không gỉ cán phẳng, có chiều rộng từ 600mm trở lên…
Thông tư chỉ rõ, Giấy phép nhập khẩu tự động do Bộ Công Thương cấp cho thương nhân nhập khẩu các sản phẩm thép nêu trên dưới hình thức xác nhận đơn đăng ký nhập khẩu cho mỗi lô hàng; Giấy phép này có giá trị thực hiện trong vòng 30 ngày kể từ ngày Bộ Công Thương xác nhận. Trong lần đề nghị cấp Giấy phép nhập khẩu tự động lần đầu tiên, thương nhân phải đăng ký hồ sơ thương nhân với cơ quan cấp Giấy phép và chỉ được xem xét cấp Giấy phép nhập khẩu tự động khi đã đăng ký hồ sơ này. Giấy phép nhập khẩu tự động sẽ được cấp trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày cơ quan cấp Giấy phép nhận được hồ sơ đầy đủ, hợp lệ.
Đặc biệt, Bộ Công Thương cũng cho phép thương nhân được lựa chọn đăng ký nhập khẩu theo chế độ cấp phép nhập khẩu tự động qua mạng Internet. Cụ thể, thương nhân phải khai báo các thông tin qua mạng Internet theo hệ thống phần mềm do Bộ quy định; sau khi được cấp tài khoản truy cập hệ thống phần mềm, thương nhân tiếp tục khai báo thông tin về hồ sơ đăng ký nhập khẩu tự động và sẽ được thông báo về kết quả thẩm định qua Internet trong vòng 01 ngày. Khi đã nhận được chấp thuận, thương nhân nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép nhập khẩu tự động. Trong trường hợp này, Giấy phép sẽ được cấp trong thời hạn 05 ngày làm việc.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 26/07/2015.
MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH PHẢI CÓ VỐN SỞ HỮU TỪ 800 TỶ ĐỒNG
Ngày 05/05/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 42/2015/NĐ-CP về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh, trong đó nêu rõ, việc kinh doanh chứng khoán phái sinh của tổ chức kinh doanh chứng khoán phải được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện.
Cụ thể, đối với hoạt động tự doanh chứng khoán, tổ chức đó phải là công ty chứng khoán có vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu từ 600 tỷ đồng trở lên; với hoạt động môi giới chứng khoán, phải có từ 800 tỷ đồng trở lên và được phép thực hiện hoạt động tự doanh chứng khoán phái sinh; với hoạt động tư vấn chứng khoán phái sinh, phải có vốn chủ sở hữu, vốn điều lệ không thấp hơn vốn pháp định theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Riêng trường hợp đăng ký kinh doanh cả hoạt động tư vấn, môi giới và tự doanh chứng khoán phái sinh, vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu của công ty chứng khoán phải đạt tối thiểu từ 800 tỷ đồng trở lên. Ngoài ra, công ty chứng khoán thực hiện các hoạt động nêu trên của thị trường chứng khoán phái sinh phải không trong quá trình hợp nhất, sáp nhập, giải thể hoặc trong tình trạng kiểm soát, kiểm soát đặc biệt, đình chỉ hoạt động, tạm ngừng hoạt động theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Với dịch vụ bù trừ, thanh toán giao dịch chứng khoán phát sinh, Nghị định này cũng yêu cầu các công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện cung cấp dịch vụ. Nếu là thành viên lưu ký của Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam phải có vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu từ 5.000 tỷ đồng trở lên đối với ngân hàng thương mại và 900 tỷ đồng trở lên đối với công ty chứng khoán; nếu là thành viên bù trừ chung, ngân hàng thương mại và công ty chứng khoán phải có vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu đạt 7.000 tỷ đồng và 1.200 tỷ đồng.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015.
DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC KHÔNG PHẢI LÀM THỦ TỤC ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ
Ngày 26/11/2014, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 với rất nhiều nội dung mới, có tác động mạnh mẽ tới các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Trước hết, Luật quy định chỉ các dự án đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài và của các tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên hoặc có đa số thành viên hợp danh là cá nhân nước ngoài phải làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư…
Như vậy, các dự án đầu tư của nhà đầu tư trong nước; đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế và dự án đầu tư của tổ chức kinh tế ngoài trường hợp nêu trên sẽ không phải làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Trong khi đó, trước đây, chỉ các dự án đầu tư trong nước có quy mô dưới 15 tỷ đồng và không thuộc Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện mới không phải làm thủ tục này.
Đồng thời, thay vì quy định chỉ các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực và địa bàn nhất định mới được hưởng các ưu đãi đầu tư như trước đây, Luật này đã bổ sung thêm các đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư, bao gồm: Dự án đầu tư có quy mô vốn từ 6.000 tỷ đồng trở lên, thực hiện giải ngân tối thiểu 6.000 tỷ đồng trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được Giấy chứng chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc quyết định chủ trương đầu tư; dự án đầu tư tại vùng nông thôn sử dụng từ 500 lao động trở lên; doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tổ chức khoa học và công nghệ.
Ngoài ra, nếu như Luật trước đây chỉ quy định cấm đầu tư vào các dự án gây phương hại đến an ninh, quốc phòng; phương hại tới di tích lịch sử văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục của Việt Nam; gây tổn hại đến sức khỏe nhân dân, làm hủy hoại tài nguyên, phá hủy môi trường; dự án xử lý phế thải độc hại đưa từ bên ngoài vào Việt Nam; sản xuất các loại hóa chất độc hại hoặc sử dụng tác nhân độc hại… thì Luật này lại chỉ rõ các ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh như: Các chất ma túy; kinh doanh các loại hóa chất, khoáng vật; kinh doanh mẫu vật các loại thực vật, động vật hoang dã; kinh doanh mại dâm; mua bán người, mô, bộ phận cơ thể người; hoạt động kinh doanh liên quan đến sinh sản vô tính người.
Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015.
▀▄ Giáo dục-Đào tạo-Dạy nghề:
|
LẬP TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI PHẢI CÓ TỪ 100 TỶ ĐỒNG
Ngày 15/05/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 48/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục nghề nghiệp, trong đó đáng chú ý là nội dung về các điều kiện cho phép đầu tư thành lập cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài.
Cụ thể, dự án đầu tư thành lập trường trung cấp, cao đẳng có vốn đầu tư nước ngoài và dự án đầu tư xin mở phân hiệu của trường trung cấp, cao đẳng có vốn đầu tư nước ngoài phải có suất đầu tư ít nhất là 100 triệu đồng/người học (không bao gồm các chi phí sử dụng đất); tổng số vốn đầu tư ít nhất được tính tại thời điểm có dự kiến quy mô đào tạo cao nhất nhưng không thấp hơn 100 tỷ đồng. Dự án đầu tư thành lập trung tâm giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải có suất đầu tư ít nhất là 60 triệu đồng/người học. Riêng đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không xây dựng cơ sở vật chất mới mà chỉ thuê lại hoặc do bên Việt Nam góp vốn bằng cơ sở vật chất sẵn có để triển khai hoạt động thì mức đầu tư ít nhất đạt 70% các mức nêu trên. Đồng thời, cơ sở giáo dục phải có diện tích đất để xây dựng đạt bình quân ít nhất 25m2/người học đối với trường trung cấp, cao đẳng và 04m2/người học đối với trung tâm giáo dục nghề nghiệp; có ký túc xá, câu lạc bộ, nhà ăn và các công trình phục vụ hoạt động giải trí, thể thao, văn hóa…
Đặc biệt, cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đăng ký hoạt động từ 20 năm trở lên tại Việt Nam phải có kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất và được UBND cấp tỉnh đồng ý giao đất, cho thuê đất; các cơ sở đăng ký hoạt động dưới 20 năm không phải xây dựng cơ sở vật chất riêng, nhưng phải có hợp đồng thuê trường, lớp, nhà xưởng và ổn định trong thời gian tối thiểu 05 năm. Ngoài ra, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải có số lượng nhà giáo cơ hữu để đảm nhận ít nhất 60% khối lượng chương trình của mỗi chuyên ngành, nghề đào tạo; tại trường cao đẳng, trung cấp phải có tỷ lệ nhà giáo có trình độ sau đại học không ít hơn 15% tổng số nhà giáo.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015.
GIẢI THỂ TRƯỜNG DẠY NGHỀ SAU 2 NĂM KHÔNG HOẠT ĐỘNG
Luật Giáo dục nghề nghiệp số 74/2014/QH13 được Quốc hội ban hành ngày 27/11/2014 quy định các cơ sở giáo dục nghề nghiệp sẽ bị giải thể nếu vi phạm các quy định của pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng; hết thời hạn đình chỉ hoạt động đào tạo mà không khắc phục được nguyên nhân dẫn đến việc đình chỉ; không được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động sau 36 tháng đối với trường cao đẳng, trung cấp hoặc 24 tháng đối với trung tâm giáo dục nghề nghiệp kể từ ngày quyết định thành lập có hiệu lực; hoặc không triển khai hoạt động đào tạo sau thời hạn 24 tháng, kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp.
Cũng theo Luật này, chính sách ưu đãi đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vẫn sẽ được đảm bảo với những quy định cụ thể như: Cơ sở giáo dục nghề nghiệp được giao đất, cho thuê đất; được ưu đãi về tín dụng đầu tư đối với cơ sở vật chất hoặc nâng cao chất lượng đào tạo; miễn, giảm thuế theo quy định đối với lợi nhuận thu được từ sản phẩm, dịch vụ được tạo ra từ hoạt động đào tạo; ưu đãi về thuế đối với việc sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phù hợp với hoạt động đào tạo; vay vốn ưu đãi từ các chương trình, dự án trong nước và nước ngoài…
Về phía người học, Luật quy định người học các trình độ trung cấp, cao đẳng đối với các ngành, nghề khó tuyển sinh nhưng xã hội có nhu cầu; người học các ngành, nghề chuyên môn đặc thù đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh sẽ được miễn học phí. Ngoài ra, trường hợp người đang học tập tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp nhưng đi làm nghĩa vụ quân sự; do ốm đau, tai nạn, thai sản không đủ sức khỏe hoặc gia đình có khó khăn không thể tiếp tục việc học hoặc đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài thì được bảo lưu kết quả học tập tối đa 05 năm.
Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015; thay thế Luật Dạy nghề số 76/2006/QH11 ngày 29/11/2006.
KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT PHỤC VỤ GIÁO DỤC THỂ CHẤT
Ngày 31/01/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 11/2015/NĐ-CP quy định về giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trong nhà trường, khuyến khích đầu tư các công trình phục vụ hoạt động này theo hình thức đối tác công - tư.
Đồng thời khẳng định sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân đầu tư, đóng góp nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất, cung cấp trang thiết bị, dụng cụ tập luyện và thi đấu thể thao phục vụ công tác giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trong nhà trường. Theo đó, các tổ chức, cá nhân đóng góp nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ công tác giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trong nhà trường sẽ được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai và được bảo đảm quyền lợi hợp pháp theo quy định của pháp luật hiện hành. Các câu lạc bộ thể thao, các hội thể thao học sinh, sinh viên cũng được hỗ trợ, tạo điều kiện hoạt động, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trong nhà trường.
Về cơ sở vật chất phục vụ giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trong nhà trường, các trường sẽ được tạo điều kiện sử dụng công trình thể thao trên địa bàn phục vụ công tác giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trong nhà trường. UBND các cấp có trách nhiệm quy hoạch quỹ đất dành cho giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trong nhà trường theo tiêu chuẩn quốc gia; các trường tư thục sẽ được hưởng ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng để có điều kiện xây dựng cơ sở vật chất phục vụ giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trong trường...
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015.
NGƯỜI ĐƯỢC CỬ TUYỂN PHẢI CÓ 3 NĂM HỌC THPT TẠI VÙNG ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN
Theo Nghị định số 49/2015/NĐ-CP ngày 15/05/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 134/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ quy định chế độ cử tuyển vào các cơ sở giáo dục trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, cử tuyển là việc tuyển sinh không qua thi tuyển vào đại học, cao đẳng, trung cấp để đào tạo cán bộ, công chức theo yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế… của đơn vị sự nghiệp công lập cho các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và các dân tộc thiểu số chưa có hoặc có rất ít cán bộ đạt trình độ đại học và cao đẳng.
Một nội dung đáng chú ý của Nghị định là quy định bổ sung điều kiện được hưởng chế độ cử tuyển. Cụ thể, ngoài việc phải đáp ứng điều kiện thường trú từ 05 năm liên tục trở lên tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, người được hưởng chế độ cử tuyển vào đại học, cao đẳng, trung cấp còn phải có thời gian 03 năm học trung học phổ thông tại trường đóng tại địa phương đó; riêng người có thời gian 04 năm trung học cơ sở ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn cũng có thể được cử tuyển vào trung cấp.
Cũng theo Nghị định này, thời gian tối đa người học theo chế độ cử tuyển phải chờ thông báo xét tuyển tăng lên 12 tháng, thay vì 06 tháng như trước đây. Nếu quá thời hạn 12 tháng không nhận được thông báo xét tuyển thì người học không phải bồi hoàn học bổng, chi phí đào tạo. Ngoài ra, nhằm đảm bảo công bằng, khách quan và minh bạch, UBND cấp tỉnh được giao trách nhiệm thông báo công khai kế hoạch cử tuyển trước 12 tháng tính đến thời gian nhận hồ sơ đăng ký cử tuyển trên phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 06/07/2015.
VIÊN CHỨC Y TẾ CÔNG CỘNG PHẢI CÓ TRÌNH ĐỘ NGOẠI NGỮ TỪ BẬC A2
Theo Thông tư liên tịch số 11/2015/TTLT-BYT-BNV ngày 27/05/2015 của Liên bộ Y tế, Nội vụ quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp y tế công cộng, chức danh này bao gồm 03 phân hạng: Y tế công cộng (hạng III); Y tế công cộng chính (hạng II) và Y tế công cộng cao cấp (hạng I).
Trong đó, viên chức có chức danh Y tế công cộng phải đáp ứng các tiêu chuẩn như: Tốt nghiệp đại học trở lên ngành y tế công cộng hoặc bác sĩ trở lên chuyên ngành y học dự phòng; có trình độ ngoại ngữ bậc 2 (A2) trở lên theo khung năng lực ngoại ngữ 06 bậc; có trình độ tin học đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản. Với viên chức có chức danh Y tế công cộng chính phải tốt nghiệp chuyên khoa cấp I hoặc thạc sĩ trở lên chuyên ngành y tế công cộng hoặc y học dự phòng; có trình độ ngoại ngữ bậc 3 (B1) trở lên và có chứng chỉ bồi dưỡng y tế công cộng chính. Tương tự, viên chức có chức danh Y tế công cộng cao cấp phải tốt nghiệp chuyên khoa cấp II hoặc tiến sĩ chuyên ngành y tế công cộng hoặc y tế dự phòng; có trình độ ngoại ngữ bậc 4 (B2) trở lên và có chứng chỉ bồi dưỡng về chức danh này…
Về chế độ lương, Thông tư này quy định chức danh Y tế công cộng cao cấp được áp dụng hệ số lương viên chức loại A3, hệ số lương từ 6,20 đến hệ số lương 8,00; chức danh Y tế công cộng chính được áp dụng hệ số lương viên chức loại A2, hệ số lương từ 4,40 đến hệ số lương 6,78; chức danh Y tế công cộng được áp dụng hệ số lương viên chức loại A1, từ hệ số lương 2,34 đến hệ số lương 4,98.
Thông tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 16/07/2015 và thay thế Quyết định số 28/2005/QĐ-BNV ngày 25/02/2005.
BÁC SĨ CHÍNH PHẢI CÓ THỜI GIAN GIỮ CHỨC DANH BÁC SĨ TỪ 6 NĂM
Đây là một trong những tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đối với bác sĩ chính (hạng II) nêu tại Thông tư liên tịch số 10/2015/TTLT-BYT-BNV do Bộ Y tế và Bộ Nội vụ ban hành ngày 27/05/2015 quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp bác sĩ, bác sĩ y học dự phòng, y sĩ.
Ngoài việc phải có thời gian giữ chức danh bác sĩ (hạng III) tối thiểu 09 năm (trường hợp có bằng tốt nghiệp bác sĩ chuyên khoa cấp I hoặc thạc sĩ y học) hoặc 06 năm nếu có bằng tốt nghiệp bác sĩ chuyên khoa cấp II hay tiến sĩ y học hoặc tốt nghiệp bác sĩ nội trú (trong đó có thời gian gần nhất giữ chức danh bác sĩ hạng III tối thiểu là 02 năm), khi thăng hạng từ chức danh bác sĩ, bác sĩ chính còn phải đáp ứng một số tiêu chuẩn khác về trình độ đào tạo, bồi dưỡng và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ khác. Cụ thể như: Đã tốt nghiệp bác sĩ chuyên khoa cấp I hoặc thạc sĩ y học trở lên (trừ chuyên ngành y học dự phòng); có trình độ ngoại ngữ bậc 3 trở lên hoặc có chứng chỉ tiếng dân tộc đối với vị trí có yêu cầu...
Đối với bác sĩ cao cấp (hạng I), Thông tư quy định, phải có trình độ ngoại ngữ bậc 4 (B2) trở lên; có chứng chỉ bồi dưỡng bác sĩ cao cấp (hạng I); trường hợp thăng hạng từ chức danh bác sĩ chính lên bác sĩ cao cấp, phải có thời gian giữ chức danh bác sĩ chính hoặc tương đương tối thiểu 06 năm, trong đó, thời gian gần nhất giữ chức danh bác sĩ chính tối thiểu 02 năm.
Một nội dung đáng chú ý khác là quy định hướng dẫn xếp lương theo chức danh nghề nghiệp đối với bác sĩ, y sĩ. Theo đó, chức danh nghề nghiệp bác sĩ cao cấp (hạng I) được áp dụng hệ số lương viên chức loại A3 (nhóm A3.1), từ hệ số lương từ 6,20 đến hệ số lương 8,00; bác sĩ chính (hạng II) được áp dụng hệ số lương từ 4,40 đến 6,78; bác sĩ (hạng III) được áp dụng hệ số lương viên chức loại A1, từ hệ số lương 2,34 đến hệ số lương 4,98...
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 16/07/2015
▀▄ Cán bộ-Công chức-Viên chức:
|
KÉO DÀI TUỔI NGHỈ HƯU ĐẾN 65 TUỔI VỚI NHIỀU CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
Đây là nội dung nổi bật tại Nghị định số 53/2015/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 29/05/2015 quy định về nghỉ hưu ở tuổi cao hơn đối với cán bộ, công chức, có hiệu lực thi hành từ ngày 15/07/2015.
Cụ thể, từ ngày 15/07/2015, cơ quan có thẩm quyền được quyết định nghỉ hưu ở tuổi cao hơn đối với các cán bộ, công chức nữ giữ chức vụ Phó Trưởng ban các Ban Trung ương Đảng; Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng; Phó Trưởng ban Chỉ đạo Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước; Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội; Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Dân tộc của Quốc hội; Phó Chủ nhiệm chuyên trách các Ủy ban Quốc hội; sĩ quan trong lực lượng vũ trang có quân hàm cấp tướng; Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội và TP.HCM... Trong đó, thời gian công tác khi nghỉ hưu ở tuổi cao hơn tối đa là 05 năm, nhưng không vượt quá 60 tuổi.
Riêng đối với những người được bổ nhiệm chức vụ, chức danh Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, từ ngày 01/06/2015, thời gian công tác khi nghỉ hưu ở tuổi cao hơn tối đa là 05 năm, nhưng không quá 65 tuổi đối với nam và 60 tuổi đối với nữ. Đặc biệt, trong thời gian thực hiện chính sách nghỉ hưu ở tuổi cao hơn, nếu cán bộ, công chức có nguyện vọng nghỉ làm việc sẽ được giải quyết chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật.
Để được nghỉ hưu ở tuổi cao hơn, cán bộ, công chức nêu trên phải có đủ sức khỏe để thực hiện chức trách, nhiệm vụ và không đang trong thời gian bị xem xét xử lý kỷ luật, bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành kỷ luật về Đảng, chính quyền.
▀▄ Lao động-Tiền lương-Phụ cấp:
|
TĂNG MỨC BỒI DƯỠNG VỚI NGƯỜI BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 14/2015/QĐ-TTg ngày 20/05/2015 về chế độ phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp và chế độ bồi dưỡng đối với người làm việc trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, trong đó đáng chú ý là những điều chỉnh về chế độ bồi dưỡng dành cho đối tượng này.
Cụ thể, nếu như trước đây, mức bồi dưỡng luyện tập đối với người làm việc trong nghệ thuật biểu diễn chỉ dao động từ 10.000 đồng/ngày - 20.000 đồng/ngày thì theo Quyết định này, mức bồi dưỡng luyện tập đã tăng lên mức từ 35.000 đồng/buổi tập - 80.000 đồng/buổi tập, tuỳ từng vị trí công việc. Tương tự, mức bồi dưỡng biểu diễn cũng đã tăng đáng kể, từ mức 20.000 đồng/buổi diễn - 50.000 đồng/buổi diễn lên mức từ 80.000 đồng/buổi diễn - 200.000 đồng/buổi diễn.
Trong đó, diễn viên chính, nhạc công chính, người chỉ đạo nghệ thuật chương trình nghệ thuật ca múa nhạc, người chỉ đạo nghệ thuật vở diễn sân khấu là 200.000 đồng/buổi diễn; diễn viên chính thứ, nhạc công chính thứ, kỹ thuật viên chính âm thanh, ánh sáng là 160.000 đồng/buổi diễn; diễn viên phụ, nhạc công, kỹ thuật viên âm thanh, kỹ thuật viên ánh sáng; trưởng, phó các đơn vị nghệ thuật và trưởng, phó các đoàn biểu diễn trực thuộc là 120.000 đồng/buổi diễn; nhân viên hậu đài, nhân viên hóa trang, phục trang, đạo cụ và nhân viên phục vụ làm việc theo chế độ hợp đồng là 80.000 đồng/buổi diễn.
Về chế độ phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp, Quyết định chỉ rõ, mức phụ cấp 20% được áp dụng với người chỉ huy dàn nhạc giao hưởng; diễn viên tuồng, chèo, cải lương, xiếc, múa rối nước, nhạc kịch, vũ kịch, kịch nói, kịch dân ca, kịch hình thể…; 15% áp dụng đối với người chỉ huy dàn hợp xướng, dàn nhạc sân khấu truyền thống; diễn viên kịch câm, hát dân ca, múa rối cạn, múa rối đương đại, múa dân gian dân tộc, múa hát cung đình; người biểu diễn nhạc cụ dây, gõ; kỹ thuật viên âm thanh, ánh sáng… Phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp được tính bằng mức phụ cấp nêu trên nhân với mức lương cơ sở và nhân với hệ số lương theo ngạch, bậc hiện hưởng (bao gồm cả hệ số phụ cấp chức vụ lãnh đạo và % phụ cấp thâm niên vượt khung, nếu có).
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 05/07/2015.
QUY ĐỊNH VỀ CẤP Ý KIẾN PHÁP LÝ
Ngày 26/05/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 51/2015/NĐ-CP về cấp ý kiến pháp lý do Bộ Tư pháp cấp và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức liên quan, nhấn mạnh, ý kiến pháp lý được cấp không làm thêm, bớt hoặc thay đổi các quyền và nghĩa vụ của các bên có được theo các văn bản được xem xét cấp ý kiến pháp lý hoặc theo luật được áp dụng vào thời điểm cấp.
Trong đó, ý kiến pháp lý là ý kiến chuyên môn độc lập đánh giá về các vấn đề pháp lý của văn bản mà Nhà nước, Chính phủ hoặc cơ quan Nhà nước là một bên như: Điều ước quốc tế về vay vốn hỗ trợ phát triển chính thức và vay ưu đãi hoặc văn bản liên quan khác; thỏa thuận vay nhân danh Nhà nước, Chính phủ hoặc Bộ Tài chính; văn bản bảo lãnh Chính phủ cho các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh hoặc văn bản phát hành trái phiếu quốc tế được Chính phủ bảo lãnh; thỏa thuận phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ và dự án đầu tư theo hình thức đối tác công - tư...
Về thời hạn cấp ý kiến pháp lý, Bộ Tư pháp cấp ý kiến pháp lý trong vòng 15 ngày từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ đối với điều ước quốc tế về vay ODA, vay ưu đãi (nếu có) và 30 ngày đối với các trường hợp khác. Trường hợp ý kiến pháp lý có nội dung phức tạp, thời hạn cấp có thể kéo dài nhưng không quá 60 ngày từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/07/2015.
VĂN BẢN PHÁP LUẬT PHẢI ĐƯỢC ĐĂNG TẢI TRÊN CƠ SỞ DỮ LIỆU QUỐC GIA TRONG 17 NGÀY
Đây là nội dung quy định tại Nghị định số 52/2015/NĐ-CP ngày 28/05/2015 của Chính phủ về cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật, có hiệu lực thi hành từ ngày 20/07/2015.
Theo quy định tại Nghị định này, trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành hoặc ngày ký xác thực, bản giấy và bản điện tử văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hợp nhất phải được gửi đến đơn vị thực hiện việc cập nhật văn bản. Trong 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản nêu trên, đơn vị thực hiện việc cập nhật phải đăng tải văn bản trên cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật.
Riêng đối với văn bản quy định các biện pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp, văn bản được ban hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai, dịch bệnh và văn bản có hiệu lực kể từ ngày công bố hoặc ngày ký ban hành, phải được gửi ngay đến đơn vị thực hiện việc cập nhật ban hành trong ngày công bố hoặc ngày ký ban hành và được đăng tải trên cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật trong thời hạn 02 ngày làm việc.
Nghị định cũng nhấn mạnh, cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật phải bảo đảm quyền được tiếp cận, khai thác, sử dụng văn bản của các tổ chức, cá nhân; bảo đảm việc tìm kiếm, khai thác văn bản được thuận tiện. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khai thác, sử dụng miễn phí văn bản trên cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật nhưng phải tuân thủ các quy định về khai thác, sử dụng văn bản trên cơ sở dữ liệu và các quy định của pháp luật hiện hành về sử dụng thông tin trên mạng...
TỪ 7/2015, DOANH NGHIỆP ĐƯỢC TỰ QUYẾT ĐỊNH HÌNH THỨC, SỐ LƯỢNG CON DẤU
Theo Luật Doanh nghiệp (DN) số 68/2014/QH13 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 16/11/2014, từ ngày 01/07/2015, DN sẽ được tự quyết định về hình thức, số lượng, nội dung con dấu của mình và phải thông báo mẫu con dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp trước khi sử dụng.
Cũng theo Luật mới này, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có 01 hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật; trong đó, có ít nhất 01 người cư trú tại Việt Nam. Trường hợp DN chỉ có 01 người đại diện theo pháp luật thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền, nghĩa vụ của người đại diện khi xuất cảnh khỏi Việt Nam.
Một nội dung đáng chú ý khác là quy định bỏ ngành nghề kinh doanh trong Giấy chứng nhận đăng ký DN. Như vậy, từ ngày 01/07/2015, nội dung Giấy chứng nhận đăng ký DN chỉ bao gồm tên, mã số, địa chỉ trụ sở chính của DN; vốn điều lệ và thông tin người đại diện theo pháp luật; thông tin các thành viên hợp danh (đối với công ty hợp danh) hoặc chủ DN (đối với DN tư nhân)... Khi có thay đổi trong nội dung Giấy chứng nhận, DN phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có thay đổi; đồng thời phải thông báo công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký DN trong thời hạn 30 ngày.
Đặc biệt, Luật cũng nhấn mạnh, từ ngày 01/07/2015, hộ kinh doanh sử dụng thường xuyên từ 10 lao động trở lên phải đăng ký thành lập DN; đối với những hộ kinh doanh có quy mô nhỏ, việc đăng ký kinh doanh và hoạt động được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Luật này thay thế Luật Doanh nghiệp, số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005; Luật sửa đổi, bổ sung Điều 170 của Luật Doanh nghiệp, số 37/2013/QH13 ngày 20/06/2013
NGUYÊN TẮC BẢO LÃNH VAY VỐN NGÂN HÀNG CỦA DN NHÀ NƯỚC
Doanh nghiệp (DN) Nhà nước được quyền bảo lãnh cho công ty con vay vốn ngân hàng tối đa bằng giá trị vốn chủ sở hữu của công ty con là nội dung nổi bật quy định tại Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, số 69/2014/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2014.
Theo đó, đối với công ty con do DN Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, tổng giá trị các khoản bảo lãnh vay vốn tại tổ chức tín dụng không quá giá trị vốn chủ sở hữu của công ty con theo báo cáo tài chính quý hoặc báo cáo tài chính năm gần nhất tại thời điểm bảo lãnh; với công ty con do DN Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng giá trị các khoản bảo lãnh vay vốn không được vượt quá giá trị vốn góp thực tế của DN tại thời điểm bảo lãnh.
Về quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu Nhà nước đối với DN, Luật khẳng định việc ban hành Điều lệ, Quy chế tài chính đối với DN 100% vốn Nhà nước được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập sẽ do Chính phủ thực hiện; việc ban hành sẽ hoàn thành trước ngày 01/01/2016. Đối với những Điều lệ, Quy chế tài chính được ban hành trước ngày 01/07/2015 sẽ được tiếp tục sử dụng đến hết ngày 31/12/2015.
Cũng theo Luật này, căn cứ vào mức độ hoàn thành nhiệm vụ của người quản lý DN, thù lao của người quản lý DN không chuyên trách được xác định trên cơ sở công việc và thời gian làm việc, nhưng không vượt quá 20% tiền lương của người quản lý DN chuyên trách. Về tiền thưởng, mức thưởng sẽ do cơ quan đại diện chủ sở hữu phê duyệt trên cơ sở hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, xếp loại DN, mức độ hoàn thành nhiệm vụ quản lý DN và được trích từ lợi nhuận sau thuế của DN.
Ngoài ra, Luật cũng quy định DN sử dụng vốn Nhà nước phải công khai kịp thời trên Cổng thông tin điện tử của DN các nội dung về hoạt động của mình, bao gồm: Kế hoạch đầu tư phát triển, kế hoạch sản xuất, kinh doanh, kế hoạch tài chính hàng năm; báo cáo tài chính 06 tháng, hàng năm; kết quả thực hiện kế hoạch định kỳ hàng quý, hàng năm; kết quả giám sát nội bộ và các vấn đề phát sinh có thể tác động đến kết quả thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển, kế hoạch sản xuất, kinh doanh, kế hoạch tài chính của DN...
Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015.
CÔNG KHAI THÔNG TIN VỀ XỬ LÝ DOANH NGHIỆP VI PHẠM PHÁP LUẬT
Ngày 28/05/2015, Liên bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính và Nội vụ đã ra Thông tư liên tịch số 04/2015/TTLT-BKHĐT-BTC-BNV ban hành Quy chế phối hợp mẫu giữa các cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập, nhằm phát hiện, xử lý kịp thời những doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật, ngăn chặn và hạn chế những tác động tiêu cực do doanh nghiệp gây ra cho xã hội...
Theo đó, việc phối hợp trong thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp phải đảm bảo chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung thanh tra, kiểm tra trong cùng thời gian giữa các cơ quan; giảm thiểu tối đa sự phiền hà, cản trở hoạt động bình thường của doanh nghiệp; không làm phát sinh thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động bình thường. Việc trao đổi, cung cấp, công khai thông tin doanh nghiệp phải chính xác, đầy đủ, kịp thời; yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin doanh nghiệp phải căn cứ vào nhu cầu quản lý Nhà nước phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan yêu cầu.
Các cơ quan chức năng có trách nhiệm công khai tên, mã số, địa chỉ trụ sở chính, tên người đại diện theo pháp luật, người đứng đầu đơn vị trực thuộc, hành vi vi phạm pháp luật, hình thức xử lý và biện pháp khắc phục hậu quả của các doanh nghiệp, đơn vị trực thuộc doanh nghiệp có hành vi vi phạm, bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý. Trong đó, Sở Kế hoạch và Đầu tư là đầu mối công khai thông tin doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật về doanh nghiệp và đầu tư; Cục Thuế công khai danh sách các doanh nghiệp, đơn vị trực thuộc doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, thành phố có hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 31/07/2015.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐƯỢC TỔ CHỨC TỐI ĐA 10 ĐƠN VỊ
Liên bộ Giáo dục và Đào tạo, Nội vụ vừa ban hành Thông tư liên tịch số 11/2015/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 29/05/2015 hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Giáo dục và Đào tạo thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng Giáo dục và Đào tạo thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, quy định Sở Giáo dục và Đào tạo có Giám đốc và 03 Phó Giám độc; được tổ chức không quá 10 đơn vị, bao gồm: Văn phòng; thanh tra, phòng tổ chức cán bộ; phòng kế hoạch - tài chính; phòng chính trị, tư tưởng và các phòng chuyên môn, nghiệp vụ khác được thành lập phù hợp với đặc điểm của địa phương.
Sở Giáo dục và Đào tạo là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, có trách nhiệm tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo ở địa phương như: Dự thảo quyết định, chỉ thị; quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 05 năm và hàng năm; chương trình, dự án, đề án, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính Nhà nước về giáo dục và đào tạo ở địa phương; dự thảo mức thu học phí, lệ phí tuyển sinh đối với các cơ sở giáo dục thuộc phạm vi quản lý của địa phương để UBND cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định theo quy định của pháp luật...
Cũng theo Thông tư này, biên chế công chức, số lượng người làm việc của Sở Giáo dục và Đào tạo được giao trên cơ sở vị trí việc làm gắn với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động và nằm trong tổng biên chế công chức, tổng số lượng người làm việc của các cơ quan, tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được cấp có thẩm quyền giao hoặc phê duyệt.
Thông tư này thay thế Thông tư liên tịch số 47/2011/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 19/10/2011 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 12/07/2015.
THÀNH LẬP VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM - HÀN QUỐC
Ngày 18/05/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 50/2015/NĐ-CP về việc thành lập Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam - Hàn Quốc (sau đây gọi là Viện), trên cơ sở Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hàn Quốc.
Viện được quy định là tổ chức khoa học và công nghệ trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và ngân hàng thương mại theo quy định; có trụ sở chính tại Hà Nội và được mở chi nhánh, văn phòng đại diện ở trong nước và nước ngoài. Viện thực hiện nhiệm vụ phát triển công nghệ nguồn, nghiên cứu nâng cấp các công nghệ phục vụ các ngành công nghiệp chiến lược, then chốt; phát triển các sản phẩm quốc gia, sản phẩm chủ lực; phát triển công nghệ tích hợp để thay thế công nghệ nhập khẩu và các nhiệm vụ khác theo Điều lệ tổ chức và hoạt động.
Cơ cấu của Viện gồm Hội đồng Viện - cơ quan có thẩm quyền quyết định chiến lược phát triển của Viện; Viện trưởng - người đại diện theo pháp luật của Viện; các Phó Viện trưởng; Hội đồng khoa học gồm một số nghiên cứu viên cao cấp của Viện và các nhà khoa học có uy tín. Nghị định cũng chỉ rõ, Nhà nước sẽ hỗ trợ toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên hàng năm và các khoản thuế phải nộp của Viện trong thời gian tối đa 10 năm.
Đồng thời, Viện được áp dụng cơ chế tài chính đặc thù tương tự như đối với các trường đại học tiên tiến được thành lập trên cơ sở Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và nước ngoài, bảo đảm khuyến khích các nhà khoa học trình độ cao là người nước ngoài, người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài tham gia hoạt động khoa học và công nghệ tiên tiến tại Viện.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/07/2015.
KHAI HOANG, CẢI TẠO ĐẤT TRỒNG LÚA ĐƯỢC HỖ TRỢ ĐẾN 10 TRIỆU ĐỒNG/HA
Đây là một trong những nội dung nổi bật tại Nghị định số 35/2015/NĐ-CP ngày 13/04/2015 của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất trồng lúa.
Theo quy định tại Nghị định này, ngoài việc được ưu tiên hỗ trợ sản xuất lúa theo quy định của pháp luật hiện hành, địa phương sản xuất lúa còn được ngân sách Nhà nước hỗ trợ 01 triệu đồng/năm với mỗi héc-ta đất chuyên trồng lúa nước, 500.000 đồng/năm với mỗi héc-ta đất trồng lúa khác (trừ đất lúa nương được mở rộng tự phát không theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trồng lúa). Đối với đất trồng lúa được khai hoang, cải tạo, Nhà nước sẽ hỗ trợ 10 triệu đồng/ha đất trồng lúa (trừ đất trồng lúa nương) được khai hoang từ đất chưa sử dụng hoặc phục hóa từ đất bị bỏ hóa và 05 triệu đồng/ha đất chuyên trồng lúa nước được cải tạo từ đất trồng lúa nước một vụ hoặc đất trồng cây khác theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trồng lúa.
Về chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa, Nghị định quy định, để được chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng cây hàng năm hoặc trồng lúa kết hợp nuôi trồng thủy sản, người sử dụng đất phải đăng ký chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa với UBND cấp xã, đồng thời, phải đảm bảo không làm mất đi các điều kiện phù hợp để trồng lúa trở lại (như không làm biến dạng mặt bằng, không gây ô nhiễm, thoái hóa đất trồng lúa; không làm hư hỏng công trình giao thông, công trình thủy lợi phục vụ trồng lúa) và phù hợp với kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa. Đặc biệt, trường hợp trồng lúa đồng thời kết hợp với nuôi trồng thủy sản, người sử dụng đất được dùng tối đa 20% diện tích đất trồng lúa để hạ thấp mặt bằng cho nuôi trồng thủy sản, nhưng phải phục hồi lại được khi chuyển trở lại để trồng lúa.
Cũng theo Nghị định này, người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp từ đất chuyên trồng lúa nước phải nộp một khoản tiền để bảo vệ, phát triển đất trồng lúa. Mức nộp tiền được quy định tùy điều kiện cụ thể của từng địa phương, nhưng không thấp hơn 50% số tiền được xác định theo diện tích đất chuyên trồng lúa nước phải chuyển sang đất phi nông nghiệp nhân với giá của loại đất trồng lúa tính theo Bảng giá đất tại thời điểm chuyển mục đích sử dụng đất.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015; riêng các chính sách hỗ trợ cho địa phương sản xuất lúa và hỗ trợ cho người sản xuất lúa theo Điều 10 và 11 Nghị định số 42/2012/NĐ-CP được tiếp tục thực hiện đến hết ngày 31/12/2015.
CHƯA NHẬN NHÀ, NGƯỜI MUA CHỈ PHẢI TRẢ TRƯỚC 70% TIỀN NHÀ
Ngày 25/11/2014, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Nhà ở số 65/2014/QH13, thay thế Luật Nhà ở số 56/2005/QH11 với nhiều nội dung mới, đáng chú ý.
Trước hết, Luật quy định chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở xã hội được ứng tiền trước của người mua nhà ở xã hội theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán nhà ở, phù hợp với tỷ lệ hoàn thành xây dựng công trình và tiến độ dự án, nhưng tổng số tiền ứng trước không được vượt quá 70% giá trị của nhà ở đến trước khi bàn giao nhà ở cho người mua và không được vượt quá 95% giá trị của nhà ở đến trước khi người mua nhà được cấp Giấy chứng nhận sở hữu đối với nhà ở đó.
Với các chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở thương mại, Luật yêu cầu trong thời hạn 50 ngày, kể từ ngày bàn giao nhà ở cho người mua hoặc kể từ thời điểm bên thuê mua đã thanh toán đủ tiền theo thỏa thuận thì phải làm thủ tục đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận sở hữu nhà ở cho người mua, người thuê mua, trừ trường hợp người mua, thuê mua tự nguyện làm thủ tục đề nghị cấp Giấy chứng nhận.
Một nội dung nổi bật khác tại Luật này là quy định về việc sở hữu nhà ở tại Việt Nam của người nước ngoài. Cụ thể, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam được mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế và sở hữu không quá 30% số lượng căn hộ trong một tòa chung cư, nếu là nhà riêng lẻ thì trên một khu vực có số dân tương đương đơn vị hành chính cấp phường được mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế và sở hữu không quá 250 căn nhà. Ngoài ra, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở tối đa 50 năm, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận và có thể được gia hạn thêm nếu có nhu cầu; riêng trường hợp cá nhân nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam hoặc kết hôn với người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì được sở hữu nhà ở ổn định, lâu dài.
Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015.
TỪ 7/2015, KD BẤT ĐỘNG SẢN PHẢI CÓ VỐN PHÁP ĐỊNH 20 TỶ ĐỒNG
Theo Luật Kinh doanh bất động sản (BĐS) số 66/2014/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2014, thay thế Luật Kinh doanh BĐS số 63/2006/QH11, từ ngày 01/07/2015, tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã và có vốn pháp định tối thiểu là 20 tỷ đồng thay vì mức 06 tỷ đồng như trước đây.
Riêng đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua BĐS quy mô nhỏ, không thường xuyên thì không phải thành lập doanh nghiệp, nhưng vẫn kê khai nộp thuế theo quy định của pháp luật.
Về việc bảo lãnh trong bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai, Luật quy định chủ đầu tư dự án BĐS trước khi bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai phải được ngân hàng thương mại có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh nghĩa vụ tài chính đối với khách hàng trong trường hợp không bàn giao nhà ở theo đúng tiến độ đã cam kết. Khi đó, khách hàng có quyền yêu cầu bên bảo lãnh hoàn lại số tiền ứng trước và các khoản tiền khác theo hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở và hợp đồng bảo lãnh đã ký kết. Danh sách ngân hàng thương mại có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh trong kinh doanh BĐS hình thành trong tương lai sẽ được công bố bởi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Đồng thời, Luật cũng cho phép cá nhân được kinh doanh dịch vụ môi giới BĐS độc lập nhưng phải có chứng chỉ hành nghề môi giới BĐS; có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên; đã qua sát hạch về kiến thức môi giới BĐS và đăng ký nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế. Chứng chỉ hành nghề môi giới BĐS có thời hạn sử dụng trong 05 năm. Các chứng chỉ được cấp trước ngày 01/07/2015 có hiệu lực thi hành sẽ có giá trị pháp lý đến 02/07/2020; hết thời hạn này, người được cấp chứng chỉ môi giới BĐS phải đáp ứng các điều kiện nêu trên.
Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015.
BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI SẼ QUY ĐỊNH KHUNG GIÁ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÔNG
Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, số 61/2014/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 21/11/2014, ngoài một số dịch vụ hàng không theo quy định hiện hành như dịch vụ cất cánh, hạ cánh; điều hành bay đi, đến; hỗ trợ bảo đảm hoạt động bay, từ ngày 01/07/2015, Nhà nước cũng sẽ quy định mức giá cụ thể đối với dịch vụ phục vụ hành khách; bảo đảm an ninh hàng không và dịch vụ điều hành bay qua vùng thông báo bay do Việt Nam quản lý.
Khung giá đối với các dịch vụ hàng không khác; giá thuê mặt bằng, dịch vụ thiết yếu tại cảng hàng không, sân bay cũng sẽ do Nhà nước quy định, thay vì các hãng hàng không được tự quyết định như trước đây. Đồng thời, Luật cũng chuyển quyền định khung giá vận chuyển hàng không nội địa cho Bộ Giao thông Vận tải (trước đây được giao cho Bộ Tài chính). Theo đó, từ ngày 01/07/2015, các hãng hàng không sẽ quyết định giá dịch vụ vận chuyển hàng không nội địa trong khung giá do Bộ Giao thông Vận tải ấn định và thực hiện kê khai giá với Bộ này.
Một nội dung đáng chú ý khác là quy định siết chặt hơn về an ninh hàng không. Theo đó ngoài các biện pháp hiện hành như: Kiểm tra, soi chiếu, giám sát; thiết lập khu vực hạn chế tại cảng hàng không, sân bay; loại trừ khả năng chuyên chở bất hợp pháp vật phẩm nguy hiểm bằng đường hàng không..., việc bảo đảm an ninh hàng không còn được thực hiện bằng các biện pháp khác như: Kiểm soát an ninh nội bộ đối với nhân viên hàng không; áp dụng các biện pháp phòng ngừa đặc biệt khi cho phép vận chuyển đối tượng nguy hiểm; phòng, chống khủng bố trên tàu bay; giám sát an ninh hàng không, duy trì trật tự, kỷ luật tại cảng hàng không, sân bay, nơi có công trình, trang bị, thiết bị hàng không và trên tàu bay... Đặc biệt, sẽ cấm vận chuyển vĩnh viễn hoặc có thời hạn đối với hành khách gây rối và người có hành vi can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng hoặc khi có yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền...
Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015.
HỦY CHUYẾN BAY, BỒI THƯỜNG TỐI THIỂU 200.000 ĐỒNG/HÀNH KHÁCH
Ngày 27/04/2015, Bộ Giao thông Vận tải đã ban hành Thông tư số 14/2015/TT-BGTVT quy định về việc bồi thường ứng trước không hoàn lại trong vận chuyển hành khách bằng đường hàng không, khẳng định sẽ bồi thường ứng trước không hoàn lại cho hành khách có vé, đã được xác nhận chỗ trên chuyến bay trong trường hợp từ chối vận chuyển hoặc hủy chuyến bay hay chuyến bay bị chậm kéo dài.
Mức bồi thường dao động từ 200.000 đồng/hành khách đến 150 USD/hành khách, tùy theo độ dài đường bay và loại chuyến bay. Cụ thể, đối với chuyến bay nội địa, mức bồi thường lần lượt là 200.000 đồng/hành khách; 300.000 đồng/hành khách và 400.000 đồng/hành khách với chuyến bay có độ dài đường bay dưới 500km; từ 500km đến dưới 1.000km và từ 1.000km trở lên; tăng 100.000 đồng/hành khách so với quy định hiện hành. Đối với chuyến bay quốc tế có độ dài đường bay dưới 1.000km; từ 1.000km đến dưới 2.500km; từ 2.500km đến dưới 5.000km và từ 5.000km trở lên, mức bồi thường cho mỗi hành khách lần lượt là 25 USD; 50 USD; 80 USD và 150 USD. Ngoài ra, người vận chuyển có thể quy định mức bồi thường ứng trước không hoàn lại nhưng không được thấp hơn các mức nêu trên.
Về phương thức bồi thường ứng trước không hoàn lại, người vận chuyển có thể bồi thường cho khách hàng bằng tiền mặt; vé miễn cước, chứng từ bồi hoàn để sử dụng tiếp dịch vụ của người vận chuyển hoặc các dịch vụ khác trong trường hợp hành khách chấp thuận; chuyển khoản ngân hàng hoặc thông qua các dịch vụ trung gian thanh toán phù hợp khác trong vòng 14 ngày làm việc từ khi hành khách có yêu cầu.
Bên cạnh đó, Thông tư cũng quy định chi tiết các trường hợp được miễn trách nhiệm bồi thường ứng trước không hoàn lại. Theo đó, khi hành khách không chấp hành quy định về bảo đảm an toàn hàng không, an ninh hàng không; có hành vi làm mất trật tự công cộng, uy hiếp an toàn bay hoặc gây ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác; đang trong tình trạng say rượu, bia; do điều kiện thời tiết ảnh hưởng đến khai thác an toàn chuyến bay; hành khách không đăng ký thông tin liên lạc theo quy định; không liên hệ được với hành khách theo thông tin liên lạc đã đăng ký hoặc đã thông báo bằng lời nói, tin nhắn, thư điện tử cho hành khách về việc hủy chuyến bay, chuyến bay bị chậm kéo dài ít nhất 24 giờ trước giờ khởi hành dự kiến theo quy định..., người vận chuyển sẽ không phải bồi thường ứng trước không hoàn lại cho hành khách.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015.
THỜI HẠN TỰ NGUYỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ GIẢM CÒN 10 NGÀY
Ngày 25/11/2014, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự số 64/2014/QH13; trong đó điều chỉnh thời hạn tự nguyện thi hành án. Cụ thể, thời hạn tự nguyện thi hành án được rút ngắn còn 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án (trước đây, thời hạn này là 15 ngày). Riêng trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc hành vi khác nhằm trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên phải áp dụng ngay các biện pháp đảm bảo thi hành án như: Phong tỏa tài sản; tạm giữ tài sản, giấy tờ; tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản.
Một nội dung đáng chú ý khác của Luật này là quy định về việc người phải thi hành án đã tích cực thi hành được một phần án phí, tiền phạt nhưng lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục thi hành được phần nghĩa vụ còn lại hoặc lập công lớn thì được xét miễn thi hành phần nghĩa vụ còn lại.
Ngoài ra, Luật cũng đã bổ sung quy định về việc xác minh điều kiện thi hành án. Trong trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án thì ít nhất 06 tháng một lần, Chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi hành án; trường hợp người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phải thi hành án thì thời hạn xác minh ít nhất 01 năm một lần.
Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015.
▀▄ Đấu thầu - Cạnh tranh:
|
YÊU CẦU NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH CHO GÓI THẦU XÂY LẮP
Ngày 06/05/2015, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT quy định chi tiết lập hồ sơ mời thầu xây lắp, ban hành mẫu hồ sơ mời thầu xây lắp áp dụng cho gói thầu đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế trong nước với phương thức lựa chọn nhà thầu 01 giai đoạn 01 túi hồ sơ và 01 giai đoạn 02 túi hồ sơ.
Khi lập, thẩm định, phê duyệt hồ sơ mời thầu gói thầu xây lắp, tổ chức, cá nhân phải áp dụng các mẫu nêu trên và căn cứ vào quy mô, tính chất của từng gói thầu cụ thể để đưa ra các yêu cầu phù hợp trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế; không được đưa ra các điều kiện nhằm hạn chế sự tham gia của nhà thầu hoặc nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một số nhà thầu gây ra sự cạnh tranh bình đẳng. Đặc biệt, không được chỉnh sửa các quy định nêu trong mẫu hồ sơ về chỉ dẫn nhà thầu và điều kiện chung của hợp đồng; đối với các nội dung khác, có thể chỉnh sửa cho phù hợp với quy mô, tính chất của gói thầu.
Theo đó, yêu cầu về nguồn lực tài chính cho gói thầu có thời gian thực hiện từ 12 tháng trở lên thường được xác định bằng 03 nhân với giá gói thầu trên thời gian thực hiện hợp đồng (thời gian này tính theo tháng); đối với gói thầu có thời gian thực hiện hợp đồng dưới 12 tháng, yêu cầu về nguồn lực tài chính cho gói thầu bằng 30% nhân với giá gói thầu. Đối với các công việc đặc thù hoặc ở các địa phương mà năng lực của nhà thầu trên địa bàn còn hạn chế, có thể yêu cầu giá trị phần công việc xây lắp của hợp đồng trong khoảng 50% - 70% giá trị phần công việc xây lắp của gói thầu đang xét, đồng thời vẫn phải yêu cầu nhà thầu bảo đảm có hợp đồng thi công tương tự về bản chất và độ phức tạp đối với các hạng mục chính của gói thầu...
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015.
▀▄ Nông nghiệp - Lâm nghiệp:
|
RỪNG PHÒNG HỘ TỪ 3.000HA PHẢI CÓ BAN QUẢN LÝ
Đây là nội dung quy định tại Quyết định số 17/2015/QĐ-TTg ngày 09/06/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế quản lý rừng phòng hộ.
Theo đó, UBND cấp tỉnh phải thành lập Ban quản lý rừng phòng hộ đối với những khu rừng phòng hộ tập trung, có diện tích từ 5.000ha trở lên (với rừng phòng hộ đầu nguồn) hoặc 3.000ha trở lên (với rừng phòng hộ chắn sóng lấn biển, rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay) và rừng phòng hộ không tập trung nhưng có tầm quan trọng về chức năng phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ chắn sóng lấn biển, rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay với tổng diện tích thuộc phạm vi địa giới hành chính của một tỉnh từ 5.000ha trở lên (với rừng phòng hộ đầu nguồn) hoặc 3.000ha trở lên (đối với rừng phòng hộ chắn sóng lấn biển, rừng phòng hộ chắn gió chắn cát bay). Trường hợp đặc biệt, rừng phòng hộ không đảm bảo diện tích nêu trên, nhưng yêu cầu cấp thiết phải thành lập Ban quản lý phải được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đồng thuận bằng văn bản.
Ngoài ra, Quyết định cũng có quy định chi tiết về tiêu chuẩn định hình khu rừng phòng hộ. Cụ thể, các khu rừng phòng hộ định hình khi có tỷ lệ diện tích đất có rừng trên diện tích của toàn khu rừng phòng hộ phải từ 70% trở lên; diện tích có rừng liền khoảnh từ 0,5ha trở lên, nếu là dải cây rừng phải có chiều rộng tối thiểu 20m và có từ 03 hàng cây trở lên; là một hệ sinh thái, trong đó thành phần chính là các loài cây lâu năm thân gỗ, cau dừa, tre nứa có chiều cao vút ngọn từ 05m trở lên (trừ một số loài cây rừng ngập mặn ven biển)...
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30/07/2015.
▀▄ Tài nguyên – Môi trương:
|
THÀNH LẬP ÁT-LÁT ĐỊA LÝ PHẢI CÓ GIẤY PHÉP HOẠT ĐỘNG
Chính phủ vừa ký Nghị định số 45/2015/NĐ-CP ngày 06/05/2015 về hoạt động đo đạc và bản đồ thuộc phạm vi lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo, vùng biển, lòng đất, vùng trời của Việt Nam, ban hành Danh mục 14 hoạt động dịch vụ đo đạc và bản đồ phải có giấy phép do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp.
Trong đó có hoạt động khảo sát, lập đề án, dự án, thiết kế kỹ thuật - dự toán công trình đo đạc và bản đồ; kiểm tra, nghiệm thu chất lượng công trình, sản phẩm đo đạc và bản đồ; xây dựng lưới trọng lực, thiên văn, tọa độ, độ cao; chụp ảnh, quét địa hình từ máy bay; đo vẽ, thành lập bản đồ địa hình; đo vẽ, thành lập bản đồ địa chính; thành lập bản đồ hành chính; đo vẽ, thành lập bản đồ địa giới hành chính; xây dựng cơ sở dữ liệu địa lý và thành lập bản đồ chuyên đề, át-lát địa lý...
Để được cấp Giấy phép hoạt động đo đạc và bản đồ, tổ chức phải đáp ứng một số điều kiện cơ bản như: Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ngành nghề đo đạc và bản đồ; có 01 kỹ thuật trưởng có trình độ đại học trở lên, chuyên ngành đào tạo về đo đạc và bản đồ, có thực tế hoạt động đo đạc và bản đồ ít nhất 03 năm, có hợp đồng lao động được đóng bảo hiểm từ 01 năm trở lên, trong đó, kỹ thuật trưởng này không được đồng thời là kỹ thuật trưởng của tổ chức hoạt động đo đạc và bản đồ khác; có 04 nhân viên kỹ thuật có trình độ trung cấp trở lên, chuyên ngành đào tạo về đo đạc và bản đồ và phải có thiết bị công nghệ đo đạc và bản đồ phù hợp với định mức thiết bị theo quy định.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015.
CẤM LẤN CHIẾM ĐẤT THUỘC HÀNH LANG BẢO VỆ NGUỒN NƯỚC
Theo Nghị định số 43/2015/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 06/05/2015 quy định lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước, hành lang bảo vệ nguồn nước được lập để thực hiện chức năng bảo vệ sự ổn định của bờ và phòng, chống lấn, chiếm đất ven nguồn nước; phòng, chống các hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái nguồn nước; bảo vệ, bảo tồn và phát triển hệ sinh thái thủy sinh, động vật, thực vật tự nhiên ven nguồn nước…
Do đó, các hành vi bị cấm trong phạm vi hành lang bảo vệ nguồn nước bao gồm: Đe dọa, làm suy giảm chức năng của hành lang bảo vệ nguồn nước; lấn chiếm, sử dụng trái phép đất thuộc phạm vi hành lang bảo vệ nguồn nước; sử dụng đất không đúng mục đích đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; xây dựng mới hoặc mở rộng quy mô bệnh viện, cơ sở y tế điều trị bệnh truyền nhiễm, nghĩa trang, bãi chôn lấp chất thải, cơ sở sản xuất hóa chất độc hại, cơ sở sản xuất, chế biến có nước thải nguy hại…
Nghị định cũng quy định, đối với sông, suối, kênh, rạch chảy qua các đô thị, khu dân cư tập trung và hồ tự nhiên, hồ nhân tạo ở khu vực này, phạm vi hành lang bảo vệ nguồn nước không nhỏ hơn 10m tính từ mép bờ. Đối với sông, suối, kênh, rạch không chảy qua các đô thị, khu dân cư tập trung thì phạm vi hành lang bảo vệ nguồn nước không nhỏ hơn 05m tính từ mép bờ. Đối với đầm, phá tự nhiên và các nguồn nước liên quan đến hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, có giá trị cao về đa dạng sinh học, bảo tồn văn hóa… thì phạm vi này không nhỏ hơn 30m…
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015.
TỪ 7/2016, THU HỒI ĐIỆN THOẠI DI ĐỘNG HẾT HẠN SỬ DỤNG
Theo Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg ngày 22/05/2015 của Thủ tướng Chính phủ quy định về thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ, từ ngày 01/07/2016, sẽ chính thức thu hồi, xử lý ắc quy, pin; dầu nhớt các loại; săm, lốp và các thiết bị điện, điện tử đã hết thời hạn sử dụng hoặc bị thải bỏ như: Điện thoại di động, máy tính bảng, máy in, máy vi tính, ti vi, đầu đĩa, máy chụp ảnh... Riêng đối với ô tô, xe mô tô, xe gắn máy đã hết thời hạn sử dụng hoặc bị thải bỏ, thời điểm thu hồi, xử lý bắt đầu từ ngày 01/01/2018.
Nhà sản xuất có trách nhiệm tổ chức thu hồi các sản phẩm thải bỏ nêu trên đã được bán ra thị trường Việt Nam; thiết lập điểm hoặc hệ thống các điểm thu hồi sản phẩm đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật môi trường về thu gom, lưu giữ, vận chuyển sản phẩm thải bỏ; xây dựng, thực hiện chính sách hợp lý, ưu đãi, tuyên truyền đối với người tiêu dùng hoặc tổ chức, cá nhân thu gom chuyển giao sản phẩm thải bỏ tại điểm tiếp nhận... Đồng thời, hàng năm, phải báo cáo Tổng cục Môi trường các thông tin về lượng sản phẩm được sản xuất, nhập khẩu đã bán ra thị trường Việt Nam; danh sách điểm thu hồi, nơi xử lý, kết quả thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ và các trường hợp từ chối tiếp nhận sản phẩm thải bỏ và lý do cụ thể.
Cũng theo Quyết định này, khi tự thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ, ngoài việc được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ theo quy định của pháp luật, nhà sản xuất còn được phép thu hồi sản phẩm thải bỏ không phải do mình sản xuất trực tiếp nhưng là bộ phận cấu thành trong sản phẩm do mình sản xuất và bán ra thị trường; được quyền yêu cầu nhà sản xuất khác tiếp nhận lại để xử lý những sản phẩm thải bỏ của họ đã đưa ra thị trường do mình thu hồi và được từ chối tiếp nhận sản phẩm thải bỏ cùng loại nhưng khác nhãn hiệu của các nhà sản xuất khác hoặc sản phẩm do đơn vị vận chuyển, xử lý chất thải mang đến khi không có sự ủy quyền, phối hợp.
Quyết định này thay thế Quyết định số 50/2013/QĐ-TTg ngày 09/08/2013 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/07/2015.
CẤM QUẢNG CÁO MÔ TẢ QUÁ MỨC CÔNG DỤNG THUỐC
Ngày 25/05/2015, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 09/2015/TT-BYT quy định về xác nhận nội dung quảng cáo đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Y tế.
Theo quy định tại Thông tư này, ngoài việc mô tả quá mức tình trạng bệnh lý hoặc công dụng của thuốc, Thông tư còn nghiêm cấm sử dụng hình ảnh động vật, thực vật trong danh mục cần bảo tồn; thông tin, hình ảnh tạo ra cách hiểu sử dụng thuốc này không cần có ý kiến của thầy thuốc hay sử dụng thuốc này hoàn toàn vô hại, không có tác dụng phụ, không có chống chỉ định, bảo đảm 100% hiệu quả... trong quảng cáo thuốc.
Đối với quảng cáo mỹ phẩm, Thông tư quy định, không được sử dụng hình ảnh, trang phục, tên, thư tín, bài viết của các đơn vị, cơ sở y tế, bác sĩ, dược sĩ, nhân viên y tế khác trong nội dung quảng cáo; đồng thời, tính năng, công dụng của sản phẩm phải phù hợp với bản chất của sản phẩm, phân loại sản phẩm và tính năng, công dụng đã được công bố theo quy định của pháp luật.
Tương tự, với quảng cáo thực phẩm, phụ gia thực phẩm, sản phẩm quảng cáo phải có Giấy xác nhận công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm hoặc Giấy tiếp nhận bản công bố hợp quy của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp; phải có tài liệu hợp pháp, tài liệu khoa học chứng minh và trích dẫn rõ nguồn tài liệu tham khảo trong market, kịch bản quảng cáo... Đặc biệt, không được quảng cáo thực phẩm dưới hình thức bài viết của bác sĩ, dược sĩ, nhân viên y tế, có nội dung mô tả thực phẩm có tác dụng điều trị bệnh; không được sử dụng hình ảnh, trang phục, tên, thư tín của các đơn vị, cơ sở y tế, bác sĩ, dược sĩ, nhân viên y tế, thư cảm ơn của người bệnh để quảng cáo thực phẩm.
Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 16/07/2015.
|