Kính thưa Đoàn Chủ tịch,
Kính thưa các vị Đại biểu Quốc hội,
Ngày 25/10, Tổng cục Thống kê công bố: 10 tháng đầu năm, cả nước có hơn 91.000 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới. Tính ra trung bình, cứ chưa đầy 5 phút, ở Việt Nam lại có thêm 1 doanh nghiệp mới ra đời. Với đà này, năm 2016 sẽ đi vào lịch sử kinh tế nước nhà là năm đầu tiên số lượng doanh nghiệp thành lập mới có thể vượt ngưỡng 100.000 doanh nghiệp.
Ngày 26/10, Ngân hàng Thế giới công bố: Việt Nam tăng 9 bậc trong bảng Tổng sắp môi trường kinh doanh toàn cầu, xếp thứ 82 trên190 nước trên thế giới, xếp thứ 5 trong10 nước ASEAN.
Như vậy là: Từ quốc tế nhìn vào, Ngân hàng thế giới đã quyết định nâng bậc cho Chính phủ Việt Nam về chất lượng thể chế. Còn ở trong nước, người dân đã bỏ phiếu cho Chính phủ bằng việc hăng hái thành lập doanh nghiệp. Niềm tin vào môi trường kinh doanh đang được khơi dậy. Đó là dấu ấn quan trọng nhất của Chính phủ mới trong những ngày tháng đầu tiên.
Với điều kiện bình thường, khơi dậy niềm tin của người dân và doanh nghiệp vào môi trường kinh doanh đã khó, nhưng trong bối cảnh gian nan của nền kinh tế kể từ đầu năm tới nay: hệ lụy từ những bất ổn của kinh tế thế giới, thiên tai dồn dập, sự tích tụ những khuyết tật về cơ cấu của nền kinh tế chưa được khắc phục và đang bộc lộ ngày càng rõ, đặc biệt là ở các chỉ số nợ xấu, nợ công, nợ Chính phủ tới ngưỡng, vượt trần …, mới thấy những nỗ lực “lội ngược dòng” của Chính phủ là rất đáng trân trọng.
Cử tri và cộng đồng doanh nghiệp cả nước đặc biệt cảm nhận và đánh giá cao tinh thần và hành động của Chính phủ theo hướng kiến tạo, phục vụ người dân và doanh nghiệp qua việc ban hành và chỉ đạo thực hiện quyết liệt các Nghị quyết 19, Nghị quyết 35 của Chính phủ với các mục tiêu: đưa Việt Nam vào nhóm 4 quốc gia có môi trường kinh doanh tốt nhất trong ASEAN, và hướng tới mục tiêu có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp hoạt động nhấtcó hiệu quả vào năm 2020… Đó là những mục tiêu chỉ có thể đạt được bằng những nỗ lực đột phá.
Về hoạt động của Quốc hội, tôi cũng xin được chia sẻ: Mặc dù luôn ủng hộ những sáng kiến lập pháp và kế hoạch hành động của Chính phủ, nhưng Quốc hội dường như cũng đang tỏ ra “khó tính hơn” và “có trách nhiệm hơn” trong những thảo luận, tranh luận gần đây về các dự luật và các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Không khí thảo luận tranh luận thẳng thắn, dân chủ, đầy trí tuệ và tinh thần trách nhiệm với Dân, với Nước tại diễn đàn Quốc hội cũng đã cho thấy những nỗ lực vượt lên của Quốc hội để “đồng hành” với Chính phủ.
Tiến sĩ Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Đại biểu quốc hội tỉnh Thái Bình
Kính thưa Quốc hội!
Mặc dù niềm tin đã được khơi dậy và không khí khởi nghiệp quốc gia đã bắt đầu, nhưng nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp vẫn đang đứng trước những khó khăn, thách thức to lớn mà các Kế hoạch về phát triển kinh tế xã hội năm 2017 và tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 phải tính đến một cách cẩn trọng. Về tổng thể, tôi thấy cả 2 bản kế hoạch đều đã được xây dựng công phu, thể hiện quyết tâm rất cao của Chính phủ trong việc đẩy mạnh cải cách thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm ổn định vĩ mô, từ đó tạo tiền đề đưa nền kinh tế nước ta bước vào một thời kỳ phát triển mới.
Nhưng tôi thấy, cả 2 bản kế hoạch này đều có một điểm chung, đó là rất tham vọng (với ý nghĩa tích cực nhất của từ này). Từ một góc độ nào đó, việc đặt ra những mục tiêu cao sẽ tạo động lực để cả hệ thống vươn xa hơn. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ khác, việc đặt ra những mục tiêu quá tầm với lại thể hiện tính chủ quan, duy ý chí, bỏ qua các quy luật khách quan và cũng không phải là vô hại.
Nhìn lại các kế hoạch phát triển kinh tế giai đoạn trước, có thể khẳng định rằng chính việc đặt ra mục tiêu tăng trưởng GDP quá cao là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự bất ổn kinh tế vĩ mô, bởi nó đòi hỏi quá nhiều nguồn lực, buộc các chính sách tài chính và tiền tệ phải nới lỏng quá mức, gây ra những hệ lụy như lạm phát, nợ công và nợ xấu,… mà cho đến nay chúng ta vẫn còn loay hoay chưa giải quyết xong.
Trong bản kế hoạch phát triển kinh tế xã hội lần này, mục tiêu tăng trưởng GDP 6,7% cho năm 2017, theo quan điểm của tôi, là tương đối cao. Trong 9 tháng đầu năm 2016 nền kinh tế mới chỉ tăng trưởng chưa đến 6%. Các động lực chính của tăng trưởng là đầu tư công và xuất khẩu đều không đạt kế hoạch. Nền kinh tế thế giới vẫn chưa khởi sắc, kinh tế trong nước còn nhiều khó khăn, gần 60% doanh nghiệp kinh doanh không có lãi, dịch bệnh, thiên tai dưới tác động của biến đổi khí hậu diễn biến khó lường…. Vậy dựa trên cơ sở nào để Chính phủ đưa ra mục tiêu GDP tăng 6,7% cho năm 2017?
Nhưng vấn đề chính nằm ở chỗ có rất nhiều thứ như kế hoạch thu/chi ngân sách, nợ công… đều được lập trên cơ sở chỉ tiêu tăng trưởng GDP này. Và nếu tăng trưởng không đạt mục tiêu, sẽ có hiệu ứng đô-mi-nô đến những chỉ tiêu khác. Điều này chúng ta đã nhìn thấy trong vài năm gần đây. Vậy Chính phủ đã có kịch bản xử lý cho tình huống này chưa?
Đối với mục tiêu lạm phát cũng vậy. Mấy năm nay chúng ta đặt ra mục tiêu lạm phát 5%, lãi suất cũng vì thế được gắn theo mục tiêu này, nhưng cuối cùng lạm phát chỉ có 1-2%. Kết quả là lãi suất bị neo ở mức quá cao so với lạm phát và những người chịu hậu quả là các doanh nghiệp và ngân sách nhà nước.
Hay như với mục tiêu cân đối xuất nhập khẩu, tại sao lại đưa ra mục tiêu nhập siêu 6,5 tỷ USD trong khi 9 tháng đầu năm 2016 nền kinh tế đã xuất siêu gần 4 tỷ USD ? và trên cơ sở nào Chính phủ lại lập kế hoạch vốn đầu tư của dân cư và doanh nghiệp tư nhân là 750 nghìn tỷ đồng trong năm 2017 ?… Chúng ta có “đếm cua trong lỗ”?
Về kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, tôi đồng tình với các quan điểm được nêu trong Dự thảo. Một số mục tiêu như thoái vốn và cổ phần hóa các DNNN là tương đối rõ ràng, cấp tiến. Tuy nhiên, một số mục tiêu được đặt ra mà chưa thấy rõ phải làm cách nào để đạt được. Chẳng hạn, mục tiêu đưa nợ xấu trong nền kinh tế xuống mức dưới 3% là cần thiết, nhưng giải pháp lại rất mơ hồ. Có lẽ chỉ những mục tiêu liên quan đến ngân sách và nợ công là rõ ràng, cụ thể và phù hợp nhất, bởi chẳng có phương án nào khác để nợ công không vượt trần. Tôi cũng thấy băn khoăn về mục tiêu tổng đầu tư toàn xã hội khoảng 32-34% GDP. Với hệ số ICOR là 5, để đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5-7%, tổng đầu tư xã hội cần đạt mức này. Nhưng hiện tại, tiết kiệm của nền kinh tế chỉ đạt mức 28-29% GDP. Bởi vậy, để đạt mục tiêu tăng trưởng đề ra, sẽ phải tăng vay nợ. Điều này sẽ ảnh hưởng thế nào đến an toàn nợ công nói riênềg và ổn định vĩ mô nói chung trong 5 năm tới? Chúng ta đều hiểu, áp lực tăng trưởng đối với đất nước ta trong những năm tới là rất lớn, vì nó liên quan đến công ăn việc làm của người dân và ngân khố Quốc gia. Nhưng mọi kế hoạch kinh tế đều phải được tính toán trên cơ sở “tiền tươi, thóc thật”. Muốn phát triển bền vững phải căn cơ, phải “liệu cơm gắp mắm”. Vì vậy, theo tôi, chúng ta nên đặt mục tiêu tăng trưởng GDP khoảng 6-6,5% đồng thời cố gắng bảo đảm cải thiện chất lượng tăng trưởng. Trong giai đoạn 2007-2015, nền kinh tế cũng chỉ tăng trưởng trung bình 6%/năm với hệ số ICOR hơn 6, nên nếu đạt mức 6-6,5% trong 5 năm tới với hệ số ICOR không quá 5 thì đã là tiến bộ rồi.
Tóm lại, với những phân tích đánh giá nêu trên, tôi đề nghị Chính phủ cần nghiên cứu đưa ra những mục tiêu phù hợp với thực lực hơn, không nên đưa ra những mục tiêu quá cao để phấn đấu mà không bao giờ đạt được, hay các mục tiêu quá thấp để dễ dàng vượt qua. Chỉ khi chúng ta đưa ra được những mục tiêu có tính khả thi, đồng thời có các kịch bản xử lý tình huống đi kèm mới giúp nền kinh tế phát triển bền vững và ít bị động trước các cú sốc. Đây là điều tôi chưa thấy được cả trong bản kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và tái cơ cấu nền kinh tế của Chính phủ. Đề nghị Chính phủ giải trình rõ thêm với Quốc hội.