|
Từ 01/03, Chính thức thu phí rút tiền ATM nội mạng |
Chính thức thu phí rút tiền ATM nội mạng; Áp mức phạt gấp 02 nếu hàng giả là lương thực, thực phẩm; Chứng chỉ hành nghề lưu trữ có giá trị 05 năm; Bảo vệ doanh nghiệp Nhà nước được hưởng chế độ như thương binh, liệt sỹ; Ngoại vụ các tỉnh được 10% tiền thu lệ phí hợp pháp hóa lãnh sự; Chỉ xử lý rủi ro đối với nợ công khi có nguyên nhân khách quan; Đầu tư dự án đô thị trên 100ha do Thủ tướng quyết định; Thắt chặt quản lý các cơ sở gây ô nhiễm; Chỉ hỗ trợ giải quyết lao động dôi dư khi doanh nghiệp không thể chi trả; Tư vấn du học phải ký quỹ tối thiểu 500 triệu đồng; Hỗ trợ tu iền ăn, ở cho học sinh trung học vùng đặc biệt khó khăn; Giấy phép biểdiễn cho ca sĩ việt kiều có thời hạn 06 tháng; Du học dùng ngân sách nhà nước phải theo đúng ngành đã học; Bồi dưỡng 0,2 mức lương tối thiểu/ngày cho cộng tác viên TGPL tham gia tố tụng... là những chính sách có hiệu lực từ tháng 03/2013.
Từ 01/03, Chính thức thu phí rút tiền ATM nội mạng
Nội dung này được quy định tại Thông tư số 35/2012/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về phí dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa.
Theo đó, từ ngày 01/03/2013, các tổ chức phát hành thẻ được phép thu phí dịch vụ thẻ thu nợ nội địa đối với các chủ thẻ theo loại phí, mức phí do Giám đốc của tổ chức đó quy định, nhưng phải bảo đảm nằm trong khuôn khổ và lộ trình đối với loại phí theo quy định của Thông tư này.
Cụ thể: Phí phát hành thẻ từ 0 - 100.000 đồng/thẻ; phí thường niên từ 0 - 60.000 đồng/thẻ/năm; phí vấn tin tài khoản ngoại mạng từ 0 - 500 đồng/giao dịch; phí in sao kê tài khoản hoặc chứng từ vấn tin tài khoản nội mạng từ 100 - 500 đồng/giao dịch, ngoại mạng từ 300 - 800 đồng/giao dịch; phí chuyển khoản từ 0 - 15.000 đồng/giao dịch.
Riêng phí rút tiền mặt ATM nội mạng sẽ được thực hiện theo lộ trình: Từ ngày 01/03/2013 đến 31/12/2013, mức phí từ 0 - 1.000 đồng/giao dịch; từ ngày 01/01/2014 đến 31/12/2014, mức phí từ 0 - 2.000 đồng/giao dịch; từ ngày 01/01/2015 trở đi, mức phí từ 0 - 3.000 đồng/giao dịch; còn phí ngoại mạng chỉ được thu trong khung từ 0 - 3.000 đồng/giao dịch.
Các mức phí kể trên chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng (VAT).
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/03/2013.
Áp mức phạt gấp 02 nếu hàng giả là lương thực, thực phẩm
Ngày 10/01/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả.
Theo đó, hình thức phạt tiền sẽ được áp dụng xử phạt tùy theo hành vi vi phạm, tính chất và mức độ vi phạm, đối tượng vi phạm với mức tiền phạt từ 100.000 - 70.000.000 đồng đối với hành vi buôn bán hàng giả; từ 200.000 - 100.000.000 đồng đối với hành vi sản xuất hàng giả. Riêng đối với hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, thức ăn chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi; phụ gia thực phẩm, hóa mỹ phẩm, trang thiết bị y tế, xi măng, sắt thép xây dựng, mũ bảo hiểm... hoặc tem, nhãn, bao bì giả của các loại hàng hóa này mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị áp mức phạt gấp 02 lần mức tiền phạt thông thường nhưng không quá mức tối đa nêu trên.
Cũng theo Nghị định này, Chính phủ quy định cụ thể các hình thức xử phạt hành chính, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng trường hợp sản xuất, buôn bán hàng giả, tiêu biểu như: Đối với hành vi buôn bán hàng giả không có giá trị sử dụng, công dụng, phạt tiền từ 500.000 - 50.000.000 đồng tùy theo giá trị số lượng hàng thật tương đương; đồng thời áp dụng hình thức phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả như: như tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề..; buộc tiêu hủy hàng giả; buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc nộp lại số tiền thu được từ buôn bán hàng giả vào ngân sách Nhà nước...
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/03/2013 và bãi bỏ các quy định trước đó trái với nội dung quy định tại Nghị định này.
Chứng chỉ hành nghề lưu trữ có giá trị 05 năm
Ngày 03/01/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lưu trữ.
Theo Nghị định này, Chứng chỉ hành nghề lưu trữ được cấp bởi Giám đốc Sở Nội vụ, có giá trị 05 năm kể từ ngày cấp và có giá trị trong phạm vi toàn quốc. Cá nhân đề nghị cấp Chứng chỉ này cần chuẩn bị 01 bộ hồ sơ bao gồm các loại giấy tờ như: Đơn đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề lưu trữ; Giấy xác nhận thời gian làm việc từ 05 năm trở lên trong lĩnh vực lưu trữ của cơ quan, tổ chức đang làm việc; bản sao chứng thực Bằng tốt nghiệp chuyên ngành phù hợp với từng lĩnh vực hành nghề…
Bên cạnh các trường hợp bị thu hồi Chứng chỉ hành nghề lưu trữ khi người có Chứng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đang chấp hành hình phạt tù... theo khoản 3 Điều 37 Luật Lưu trữ, Sở Nội vụ cũng sẽ thu hồi Chứng chỉ hành nghề lưu trữ nếu thuộc một trong các trường hợp như: Hành nghề không đúng với nội dung ghi trong chứng chỉ; tự ý tẩy xóa, sửa chữa chứng chỉ; cho người khác mượn, thuê hoặc sử dụng chứng chỉ...
Ngoài ra, Nghị định cũng quy định thời hạn nộp lưu tài liệu chuyên môn nghiệp vụ có giá trị bảo quản vĩnh viễn của ngành Công an, Quốc phòng, Ngoại giao và các ngành, lĩnh vực khác vào Lưu trữ lịch sử là 30 năm kể từ năm công việc kết thúc, trừ tài liệu lưu trữ chưa được giải mật hoặc tài liệu cần thiết cho hoạt động nghiệp vụ hàng ngày của cơ quan, tổ chức.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/03/2013.
Bảo vệ doanh nghiệp Nhà nước được hưởng chế độ như thương binh, liệt sỹ
Ngày 09/01/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2013/NĐ-CP quy định về bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp; trong đó đáng lưu ý là quy định về chế độ, chính sách đối với nhân viên bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước và tổ chức chính trị.
Cụ thể, Chính phủ quy định trong khi thi hành nhiệm vụ, nếu nhân viên bảo vệ bị thương, bị hy sinh thì được xem xét và có thể được công nhận hưởng chế độ như thương binh, liệt sỹ và các hình thức khen thưởng khác theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với các mạng và pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Bên cạnh đó, chế độ, chính sách của nhân viên bảo vệ tại các cơ quan, doanh nghiệp khác vẫn được áp dụng, thực hiện theo hợp đồng lao động như thông thường.
Cũng theo Nghị định này, Chính phủ quy định nhân viên bảo vệ các cơ quan, doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện tối thiểu như: Là công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên; có lý lịch rõ ràng; tốt nghiệp từ trung học phổ thông trở lên (hoặc trung học cơ sở trở lên đối với miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa); đồng thời phải được huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ bảo vệ và được cấp giấy chứng nhận bởi Công an cấp tỉnh hoặc cấp tương đương...
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/03/2013 và thay thế Nghị định số 73/2001/NĐ-CP ngày 05/10/2001.
Ngoại vụ các tỉnh được 10% tiền thu lệ phí hợp pháp hóa lãnh sự
Ngày 02/01/2013, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 01/2013/TT-BTC về việc sửa đổi, bổ sung Thông tư 36/2004/TT-BTC ngày 26/04/2004 của Bộ Tài chính quy định chế độ thu, nộp và quản lý sử dụng lệ phí hợp pháp hoá, chứng nhận lãnh sự.
Tại Thông tư này, Bộ Tài chính đã bổ sung quy định hướng dẫn chi tiết việc quản lý, sử dụng khoản thu lệ phí hợp pháp hóa, chứng nhận lãnh sự tại cơ quan thu phí, lệ phí (thuộc Bộ Ngoại giao). Cụ thể: Với hồ sơ đề nghị hợp pháp hóa, chứng nhận lãnh sự nộp tại Bộ Ngoại giao, cơ quan thu lệ phí được trích lại 30% tiền thu được trước khi nộp vào ngân sách để trang trải chi phí cho việc thực hiện công việc lệ phí tại Bộ; với hồ sơ nộp tại ngoại vụ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cơ quan thu phí để lại 20% tiền thu được và chuyển cho cơ quan ngoại vụ các tỉnh, thành phố tiếp nhận hồ sơ 10% tiền thu được trước khi nộp vào ngân sách Nhà nước.
Bên cạnh đó, quy định về nội dung chi vẫn giữ như cũ, bao gồm: chi thanh toán tiền lương, tiền công, phụ cấp lương, bảo hiểm cho cá nhân thực hiện công việc, dịch vụ và thu phí, lệ phí; chi văn phòng phẩm, vật tư văn phòng, công tác phí… Riêng chi khen thưởng, phúc lợi cho cán bộ, nhân viên trong đơn vị thực hiện theo nguyên tắc bình quân một năm, một người tối đa không quá 03 tháng lương nếu số thu năm nay cao hơn năm trước và tối đa bằng 02 tháng lương nếu số thu năm nay thấp hơn hoặc bằng năm trước.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/03/2013.
Chỉ xử lý rủi ro đối với nợ công khi có nguyên nhân khách quan
Nội dung này được thể hiện tại Quy chế quản lý và xử lý rủi ro đối với danh mục nợ công ban hành theo Quyết định số 56/2012/QĐ-TTg ngày 21/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ.
Theo đó, việc xử lý rủi ro đối với danh mục nợ công chỉ áp dụng cho các nguyên nhân khách quan, bao gồm: thiên tai, dịch bệnh xảy ra làm thiệt hại trực tiếp đến các chương trình, dự án sử dụng vốn vay thuộc danh mục nợ công; điều chỉnh cơ chế, chính sách kinh tế vĩ mô, sự thay đối các điều kiện về chính tri, pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và nghĩa vụ nợ công; những tác động của kinh tế thế giới và khu vực, biến động của thị trường vốn quốc tế; người vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ, người được Chính phủ bảo lãnh vay vốn đã có quyết định giải thể hoặc phá sản…
Riêng các khoản nợ công bị rủi ro do các nguyên nhân chủ quan như sử dụng vốn sai mục đích và cố ý làm trái quy định; người vay cố tình chây ỳ trả nợ… thì tổ chức, cá nhân gây ra tổn thất phải chịu trách nhiệm xử lý và bồi thường theo quy định.
Ngoài ra, Quyết định cũng có quy định cụ thể về các phương pháp xử lý rủi ro đối với danh mục nợ công, trong đó bao gồm phương pháp xử lý rủi ro thị trường, xử lý rủi ro thanh toán, xử lý rủi ro tín dụng, quản lý rủi ro hoạt động…
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/03/2013.
Đầu tư dự án đô thị trên 100ha do Thủ tướng quyết định
Ngày 14/01/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 11/2013/NĐ-CP về quản lý đầu tư và phát triển đô thị, trong đó đáng chú ý là những quy định về thẩm quyền chấp thuận đầu tư với các dự án đầu tư xây dựng khu đô thị mới.
Cụ thể, Nghị định này chỉ rõ, Thủ tướng Chính phủ quyết định chấp thuận đầu tư sau khi có ý kiến thẩm định của Bộ Xây dựng đối với các dự án có quy mô sử dụng đất từ 100ha trở lên; dự án thuộc địa giới hành chính của hai tỉnh trở lên hoặc khu vực có ý nghĩa quan trọng về an ninh, quốc phòng. Bên cạnh đó, UBND cấp tỉnh quyết định chấp thuận đầu tư đối với các dự án có quy mô sử dụng đất từ 20ha đến dưới100ha sau khi có ý kiến thống nhất bằng văn bản của Bộ Xây dựng và các dự án còn lại.
Ngoài ra, Nghị định cũng quy định cụ thể về điều kiện của chủ đầu tư dự án xây dựng khu đô thị. Trong đó, yêu cầu chủ đầu tư là doanh nghiệp phải có vốn đầu tư thuộc sở hữu của mình không thấp hơn 15% tổng mức đầu tư của dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20ha, không thấp hơn 20% tổng mức đầu tư của dự án có quy mô sử dụng đất từ 20ha trở lên và có vốn đầu tư thuộc sở hữu của mình không thấp hơn 20% tổng mức đầu tư của dự án đối với các dự án còn lại…
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/03/2013 và thay thế Nghị định số 02/2006/NĐ-CP ngày 05/01/2006.
Quy định tiêu chuẩn hạch toán tài sản hạ tầng đường bộ
Ngày 11/01/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 10/2013/NĐ-CP quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, trong đó đáng chú ý là những quy định về hạch toán tài sản đường bộ.
Theo Nghị định này, tài sản hạ tầng đường bộ đủ tiêu chuẩn để ghi sổ hạch toán là những tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau và phải thỏa mãn 02 điều kiện: Có thời gian sử dụng từ 01 năm trở lên và có nguyên giá từ 10 triệu đồng trở lên.
Những tài sản hạ tầng đường bộ là đối tượng ghi sổ hạch toán bao gồm: Đường và các công trình phụ trợ gắn liền với đường; cầu đường bộ dài từ 25m trở lên và các công trình phụ trợ gắn liền với cầu đường bộ; hầm đường bộ và các công trình phụ trợ gắn liền với bến phà đường bộ; trạm kiểm tra trọng tải xe, trạm thu phí đường bộ; bến xe… Trong trường hợp một tài sản hạ tầng đường bộ do nhiều cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý thì đối tượng ghi sổ hạch toán của mỗi cơ quan, đơn vị là phần tài sản thuộc phạm vi được giao quản lý.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/03/2013.
Thắt chặt quản lý các cơ sở gây ô nhiễm
Ngày 14/01/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 04/2013/QĐ-TTg về thẩm quyền quyết định danh mục và biện pháp xử lý cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Theo đó, nhằm tránh tình trạng đùn đẩy, thoái thác trách nhiệm tổng hợp danh mục và biện pháp xử lý cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại các cấp và địa phương, Thủ tướng đã phân công rõ ràng trách nhiệm này cho các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền.
Cụ thể: Sở Tài nguyên và Môi trường (TNMT) các tỉnh chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành liên quan rà soát, tổng hợp danh mục và biện pháp xử lý cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, trình Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định đối với các cơ sở trên địa bàn quản lý. Bộ TNMT có trách nhiệm thanh tra việc thành lập danh mục này.
Riêng với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, bệnh viện, bãi chôn lấp chất thải rắn thuộc đối tượng phải lập Đề án bảo vệ môi trường hoặc Báo cáo đánh giá tác động môi trường thuộc thẩm quyền phê duyệt của các Bộ, cơ quan ngang Bộ... thì trách nhiệm tổng hợp danh mục và biện pháp xử lý sẽ được giao cho Bộ TNMT. Thủ tướng sẽ quyết định danh mục và biện pháp xử lý đối với các cơ sở này.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/03/2013.
Thắt chặt giám sát các giao dịch chứng khoán
Ngày 25/01/2013, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 13/2013/TT-BTC về việc giám sát giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán.
Tại Thông tư này, Bộ Tài chính yêu cầu các Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK) có trách nhiệm giám sát diễn biến các giao dịch trong ngày, nhiều ngày, định kỳ; xác định rõ dấu hiệu vi phạm pháp luật đối với các giao dịch bất thường nhằm kịp thời phát hiện các giao dịch có dấu hiệu thao túng thị trường, giao dịch nội bộ và các hành vi vi phạm quy định về giao dịch chứng khoán theo quy định; giám sát việc công bố thông tin và chế độ báo cáo theo quy định. SGDCK cũng đồng thời phải lập và gửi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) báo cáo định kỳ, báo cáo bất thường và báo cáo theo yêu cầu về giám sát giao dịch chứng khoán của các đối tượng giám sát...
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cũng yêu cầu các tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch chứng khoán có nghĩa vụ cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác các thông tin, tài liệu, dữ liệu điện tử liên quan đến nội dung giám sát theo yêu cầu của UBCKNN, SGDCK; giải trình và thực hiện công bố thông tin theo quy định khi có các giao dịch chứng khoán của các cổ đông lớn, của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát hoặc của tổ chức, cá nhân hoặc người có ý định nắm giữ từ 25% cổ phiếu biểu quyết, chứng chỉ quỹ của một công ty đại chúng...
Thông tư này có hiệu lực từ ngày 08/03/2013 và thay thế Quyết định số 127/2008/QĐ-BTC ngày 31/12/2008.
Chỉ hỗ trợ giải quyết lao động dôi dư khi doanh nghiệp không thể chi trả
Ngày 18/01/2013, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 10/2013/TT-BTC hướng dẫn cơ chế quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp tại các Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước, Công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con (sau đây gọi là Quỹ), trong đó đáng chú ý là những quy định về chi hỗ trợ giải quyết chính sách đối với lao động dôi dư.
Theo Thông tư này, các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, bán doanh nghiệp sẽ chỉ được Quỹ hỗ trợ phần kinh phí để giải quyết chính sách đối với lao động dôi dư còn thiếu khi nguồn thu từ cổ phần hóa, bán doanh nghiệp theo quy định của pháp luật không đủ chi trả. Đối với doanh nghiệp thực hiện giải thế, phá sản sẽ được Quỹ hỗ trợ khi nguồn thu từ hoạt động giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật không đủ để giải quyết chính sách đối với lao động dôi dư.
Đối tượng được hỗ trợ nguồn kinh phí từ Quỹ bao gồm người lao động bị mất việc hoặc thôi việc; các chức danh thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc, Giám đốc, Kiểm soát viên…của doanh nghiệp thực hiện sắp xếp, chuyển đổi.
Thông tư cũng quy định rõ, đơn vị tiếp nhận kinh phí phải thực hiện chi trả cho người lao động và lập báo cáo quyết toán kinh phí trong thời hạn theo quy định. Sau thời hạn này, nếu đơn vị tiếp nhận kinh phí chưa thực hiện báo cáo thì phải có văn bản giải trình lý do và có trách nhiệm hoàn tất báo cáo trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày quá hạn.Sau 30 ngày, nếu doanh nghiệp vẫn không có báo cáo quyết toán kinh phí thì bị cưỡng chế, thu hồi lại khoản kinh phí đã hỗ trợ.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/03/2013 và thay thế Quyết định số 09/2008/QĐ-BTC ngày 31/01/2008.
Tư vấn du học phải ký quỹ tối thiểu 500 triệu đồng
Quy định này được thể hiện tại Quyết định số 05/2013/QĐ-TTg ngày 15/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc công dân Việt Nam ra nước ngoài học tập.
Theo đó, để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động dịch vụ tư vấn du học, các Tổ chức dịch vụ tư vấn du học phải đáp ứng đủ các điều kiện như: Được thành lập theo quy định pháp luật; có nguồn lực tài chính để bảo đảm giải quyết các trường hợp rủi ro; có tiền ký quỹ tối thiểu 500 triệu đồng tại ngân hàng thương mại; người đứng đầu tổ chức và nhân viên trực tiếp tư vấn phải có trình độ đại học trở lên và thông thạo ít nhất một ngoại ngữ, có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ tư vấn du học do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) cấp.
Bên cạnh đó, tổ chức dịch vụ tư vấn du học có thể bị đình chỉ hoạt động nếu dừng hoạt động liên tục 06 tháng liên tục mà không thông báo với cơ quan cấp Giấy chứng nhận; cho thuê hoặc mượn Giấy chứng nhận...; hoặc bị thu hồi Giấy chứng nhận nếu trong 05 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận mà bị đình chỉ hoạt động 03 lần...
Ngoài ra, Thủ tướng cũng yêu cầu trước ngày 15/01 hằng năm, các cơ quan, tổ chức thực hiện tuyển sinh và cử công dân Việt Nam ra nước ngoài học tập bằng ngân sách Nhà nước cấp phải gửi báo cáo hoạt động về việc tuyển sinh và cử công dân ra nước ngoài học tập về Bộ GDĐT; tổ chức dịch vụ tư vấn du học gửi báo cáo về Sở GDĐT để theo dõi quản lý và tổng hợp, báo cáo Thủ tướng.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/03/2013.
Hướng dẫn xây dựng trung tâm dữ liệu theo tiêu chuẩn quốc gia
Ngày 22/01/2013, Bộ Thông tin và Truyền thông (TTTT) đã ban hành Thông tư 03/2013/TT-BTTTT quy định áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với trung tâm dữ liệu (TTDL).
Theo hướng dẫn tại Thông tư này, trong toàn bộ quá trình thiết kế, xây dựng và vận hành, khai thác TTDL, các cơ quan Nhà nước đầu tư xây dựng TTDL sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước và doanh nghiệp xây dựng TTDL để cung cấp dịch vụ phải áp dụng các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật sau: Tiêu chuẩn quốc gia về TTDL - Yêu cầu hạ tầng kỹ thuật viễn thông số TCVN 9250:2012; Quy chuẩn về chống sét cho trạm viễn thông và mạng cáp ngoại vi viễn thông số QCVN 32:2011/BTTTT; Quy chuẩn về tiếp đất cho các trạm viễn thông số 09:2010/BTTTT...
Đối với từng tiêu chuẩn cụ thể, cơ quan, doanh nghiệp xây dựng TTDL có trách nhiệm lựa chọn đơn vị đo kiểm (được Bộ TTTT chỉ định) thực hiện việc đo kiểm và thực hiện công bố về sự phù hợp của trung tâm với các quy chuẩn, tiêu chuẩn và các mức bảo đảm kỹ thuật theo quy định.
Cục Viễn thông là cơ quan tiếp nhận, quản lý hồ sơ công bố phù hợp tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của các cơ quan, doanh nghiệp; đồng thời tiến hành công bố danh sách các TTDL đã công bố trên trang thông tin điện tử của Cục...
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/03/2013.
Cở sở điều trị lao phải có xác nhận của Chương trình chống lao
Ngày 15/01/2013, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 02/2013/TT-BYT quy định về việc phối hợp giữa các cơ sở y tế trong quản lý bệnh lao, trong đó đáng chú ý là quy định về điều kiện phối hợp điều trị và chẩn đoán bệnh lao.
Theo quy định tại Thông tư này, cơ sở y tế không thuộc mạng lưới phòng chống lao tham gia điều trị bệnh lao thì ngoài giấy phép hoạt động khám bệnh, chữa bệnh do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về y tế cấp, còn phải được Chương trình chống lao tuyến tỉnh xác nhận đủ điều kiện điều trị bệnh lao. Những điều kiện mà các cơ sở y tế này phải đáp ứng bao gồm: Có người hành nghề tham gia điều trị lao phải được Chương trình chống lao quốc gia hoặc Chương trình chống lao tuyến tỉnh tập huấn về công tác quản lý điều trị lao; đủ điều kiện theo dõi, giám sát người bệnh lao tuân thủ điều trị theo đúng hướng dẫn của Bộ Y tế.
Bên cạnh đó, để được tham gia phối hợp chẩn đoán bệnh lao, cơ sở y tế cũng cần được Chương trình chống lao tuyến tỉnh xác nhận đủ điều kiện chẩn đoán bệnh lao nếu có đủ điều kiện như: Có phòng xét nghiệm đủ năng lực thực hiện soi đờm trực tiếp hoặc các kỹ thuật xét nghiệm vi khuẩn lao khác; người hành nghề tham gia chẩn đoán lao có khả năng tối thiểu là chỉ định, đọc phim Xquang ngực, được Chương trình chống lao quốc gia hoặc Chương trình chống lao tuyến tỉnh tập huấn về chẩn đoán bệnh lao;…
Cũng theo Thông tư này, những công chức, viên chức và người lao động làm việc tại các cơ sở y tế trong mạng lưới phòng chống bệnh lao, bệnh phổi sẽ được hưởng các chế độ phụ cấp ưu đãi nghề; hưởng chế độ phụ cấp độc hại, nguy hiểm; chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật theo quy định.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/03/2013.
Quản lý chất lượng xét nghiệm tại cơ sở khám, chữa bệnh
Nội dung này được nhấn mạnh tại Thông tư số 01/2013/TT-BYT ngày 11/01/2013 của Bộ Y tế quy định việc hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng xét nghiệm tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Theo đó, Bộ Y tế quy định các cơ sở khám, chữa bệnh có phòng xét nghiệm phải phối hợp thực hiện các công việc, kế hoạch với trung tâm kiểm chuẩn xét nghiệm được Bộ quyết định, cho phép thành lập hoạt động để bảo đảm chất lượng xét nghiệm tại phòng xét nghiệm của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Hoạt động quản lý chất lượng xét nghiệm của các cơ sở khám, chữa bệnh phải đảm bảo 03 nội dung như sau: Phù hợp với chính sách, pháp luật, cam kết chất lượng, quy mô, điều kiện của cơ sở và phòng xét nghiệm; Xây dựng kế hoạch và lộ trình thực hiện quản lý chất lượng xét nghiệm đạt; Công khai công tác kiểm chuẩn xét nghiệm của đơn vị để cơ quan quản lý, khách hàng, cộng đồng biết và giám sát.
Ngoài ra, Bộ còn yêu cầu phòng xét nghiệm của cơ sở khám chữa bệnh phải có kế hoạch quản lý chất lượng xét nghiệm hằng năm và kế hoạch 5 năm về thực hiện quản lý chất lượng xét nghiệm được lãnh đạo cơ sở phê duyệt, lồng ghép với kế hoạch hằng năm và kế hoạch 5 năm của cơ sở; đồng thời xây dựng bộ chỉ số chất lượng xét nghiệm phù hợp với điều kiện của phòng xét nghiệm và điều chỉnh các chỉ số này định kỳ mỗi năm một lần...
Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 15/03/2013.
Hỗ trợ tiền ăn, ở cho học sinh trung học vùng đặc biệt khó khăn
Ngày 24/01/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 12/2013/QĐ-TTg quy định chính sách hỗ trợ học sinh trung học phổ thông ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Theo đó, từ ngày 15/03/2013, học sinh trung học phổ thông là người dân tộc thiểu số hoặc là người dân tộc Kinh thuộc hộ nghèo ở xã, thôn có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn sẽ được hưởng chính sách hỗ trợ của Chính phủ từ nguồn kinh phí chi cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo hàng năm.
Cụ thể: Mỗi tháng được hỗ trợ tiền ăn bằng 40% mức lương tối thiểu chung nhưng không quá 9 tháng/năm học/học sinh; đối với học sinh phải tự túc chỗ ở, mỗi tháng còn được hỗ trợ tiền nhà ở bằng 10% mức lương tối thiểu chung nhưng không quá 9 tháng/năm học/học sinh.
Để được hưởng chính sách hỗ trợ này, học sinh là người dân tộc thiểu số phải đáp ứng đủ 03 điều kiện sau: Đang học cấp trung học phổ thông tại trường thuộc loại hình công lập; Bản thân, bố, mẹ hoặc người giám hộ có hộ khẩu thường trú tại xã, thôn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Do nhà ở xa trường hoặc địa hình cách trở, giao thông đi lại khó khăn, không thể đi đến trường và trở về nhà trong ngày, phải ở lại trường hoặc khu vực gần trường để học tập. Riêng với học sinh là người dân tộc Kinh, ngoài 3 điều kiện nêu trên còn phải nằm trong danh sách hộ nghèo.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/03/2013.
Giấy phép biểu diễn cho ca sĩ việt kiều có thời hạn 06 tháng
Quy định này được nêu tại Thông tư 03/2013/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày 28/01/2013 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 79/2012/NĐ-CP ngày 05/10/2012 về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu.
Theo Quyết định này, Giấy phép tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang do Cục Nghệ thuật biểu diễn hoặc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch cấp có hiệu lực trên phạm vi toàn quốc, trừ trường hợp hạn chế về địa điểm biểu diễn quy định trong giấy phép. Trong đó, giấy phép cấp cho nghệ sĩ là người Việt Nam định cư ở nước ngoài về nước biểu diễn có thời hạn 06 tháng.
Đối với tổ chức thi và liên hoan các loại hình nghệ thuật, Bộ quy định thời gian tổ chức các cuộc thi dành cho các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp với các loại hình Tuồng, Chèo, Cải lương, Kịch nói, Dân ca kịch; cho nhóm nghệ sĩ, cá nhân nghệ sĩ cho các loại hình sân khấu và ca, múa, nhạc hay các cuộc thi, liên hoan quốc tế do Việt Nam đăng cai, thực hiện là 03 năm/lần.
Đối với điều kiện dự thi người đẹp trong nước, Thông tư cũng có hướng dẫn cụ thể, theo đó, thí sinh tham gia phải là nữ công dân Việt Nam, từ đủ mười tám tuổi trở lên, có vẻ đẹp tự nhiên, không qua phẫu thuật thẩm mỹ; có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên và không có tiền án; không trong thời gian bị truy cứu trách nhiệm hình sự...
Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 15/03/2013.
Du học dùng ngân sách nhà nước phải theo đúng ngành đã học
Ngày 29/01/2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Thông tư số 01/2013/TT - BGDĐT ban hành Quy chế tuyển sinh nước ngoài theo các diện học bổng từ nguồn kinh phí ngân sách Nhà nước; theo các Hiệp định, Thỏa thuận hợp tác giữa Việt Nam với nước ngoài hoặc do Chính phủ nước ngoài, các tổ chức quốc tế tài trợ.
Tại Quy chế này, Bộ GDĐT chỉ rõ một trong những nguyên tắc đăng ký dự tuyển là ứng viên phải đăng ký ngành học nước ngoài theo đúng ngành đã đạt giải thưởng hoặc trúng tuyển đại học; ngành đang học hoặc đã tốt nghiệp đại học, thạc sỹ, tiến sỹ và phải phù hợp với nhu cầu công tác tại cơ quan, địa phương cử đi học. Tại một thời điểm, ứng viên chỉ được đăng ký dự tuyển 01 chương trình học bổng ở 01 nước để học 01 ngành học với trình độ cao hơn trình độ đã có văn bằng.
Các đối tượng ưu tiên vẫn được thực hiện theo quy định tại Quy chế tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy, Quy chế đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ hiện hành. Đồng thời, ưu tiên cán bộ thuộc các cơ quan, địa phương được ưu tiên về đào tạo nhân lực theo quy định của Chính phủ; giảng viên; ứng viên có trình độ chuyên môn giỏi, có thành tích xuất sắc trong học tập và nghiên cứu khoa học, có trình độ ngoại ngữ đạt yêu cầu của chương trình học bổng; các đối tượng ưu tiên khác theo quy định cụ thể của từng chương trình học bổng...
Ngoài ra, Quy chế cũng yêu cầu các thông báo tuyển sinh và kết quả trúng tuyển đi học nước ngoài phải được đăng tải công khai tại địa chỉ: www.moet.gov.vn và www.vied.vn.
Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày 15/3/2013; thay thế Thông tư số 43/TT ngày 07/09/1991 và Quyết định số 335/QĐ-HSSV ngày 23/02/1993.
Tăng mức điều chỉnh tiền lương, tiền công đã đóng BHXH
Ngày 30/01/2013, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 01/2013/TT-BLĐTBXH về mức điều chỉnh tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đã đóng bảo hiểm xã hội (BHXH).
Thông tư này quy định mức điều chỉnh tiền lương, tiền công đã đóng BHXH của người lao động theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định, hoặc thu nhập đã đóng BHXH của người lao động tham gia BHXH tự nguyện hưởng lương hưu, trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, BHXH một lần hoặc bị chết mà thân nhân được hưởng trợ cấp tuất một lần. Mức điều chỉnh này là căn cứ để tính tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH hoặc thu nhập tháng đóng BHXH tự nguyện sau điều chỉnh của từng năm.
Theo đó, mức điều chỉnh tiền lương, tiền công đã đóng BHXH của năm tương ứng như sau: Trước năm 1995 là 3,84; năm 1995 là 3,26...; năm 2012 - 2013 là 1,00 (tăng từ 0 - 0,32 so với các mức điều chỉnh được quy định năm 2012). Mức điều chỉnh thu nhập tháng đã đóng BHXH tự nguyện của năm tương ứng cũng cao hơn từ 0 - 0,13 so với quy định năm 2012, cụ thể: Năm 2008 là 1,51; năm 2009 là 1,41...; năm 2012 - 2013 là 1,00...
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/03/2013; các quy định tại Thông tư này áp dụng kể từ ngày 01/01/2013.
Bồi dưỡng 0,2 mức lương tối thiểu/ngày cho cộng tác viên TGPL tham gia tố tụng
Ngày 05/02/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 14/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý (TGPL).
Theo sửa đổi tại Nghị định này, cộng tác viên TGPL sẽ được hưởng chế độ bồi dưỡng theo vụ việc trợ giúp pháp lý đã thực hiện căn cứ vào số giờ tư vấn pháp luật, chất lượng nội dung trợ giúp pháp lý, tính chất phức tạp của vụ việc và hình thức trợ giúp pháp lý. Trường hợp trợ giúp bằng hình thức tham gia tố tụng thì mức bồi dưỡng trả cho cộng tác viên là 0,2 mức lương tối thiểu/ngày làm việc của cộng tác viên.
Đối với Trợ giúp viên pháp lý, Chính phủ quy định mức phụ cấp trách nhiệm theo nghề bằng 25% lương hiện hưởng cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp vượt khung. Khi tham gia tố tụng hoặc đại diện ngoài tố tụng, Trợ giúp viên còn được hưởng chế độ bồi dưỡng vụ việc bằng 20% mức bồi dưỡng đối với cộng tác viên (so với quy định cũ là 10%).
Ngoài ra, đối với tiêu chuẩn bổ nhiệm Giám đốc Trung tâm Trợ giúp pháp lý, Nghị định này đã bỏ yêu cầu phải có ít nhất ba năm làm công tác trợ giúp pháp lý, nhưng quy định người được bổ nhiệm phải là Trợ giúp viên pháp lý, có thời gian công tác pháp luật liên tục từ 05 năm trở lên và phải có năng lực quản lý...
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 31/03/2013.
|