 Khác biệt đầu tiên của nón Huế là ở lá nón. Các địa phương khác nhau, do  phong thổ và tập quán khác nhau, dùng các loại lá khác nhau để làm  nguyên liệu chính cho nón lá. Nếu như vùng lưu vực sông Đà, sông Thao ở  miền Bắc phổ biến dùng lá cọ, khu vực Nghệ An dùng lá gồi, còn có tên là  lá kè nam, vùng Bình Định dùng cây giang và lá kè nam để làm nón ngựa  Gò Găng, thì vùng Bình, Trị, Thiên lại dùng lá nón, còn có tên là lá  lụi. Nguồn cung cấp nguyên liệu lá cho nghề nón lá Huế là A Lưới, Nam Đông,  Hương Trà, đặc biệt là ở Nam Đông. Theo chủ lò sơ chế nguyên liệu lá nón  số nhà 30, đường Trần Phú, thành phố Huế thì lá nón được khai thác ở  Nam Đông dài, bẹ to, mỏng, mềm, lá nón được khai thác ở A Lưới dày,  cứng, ở Quảng Trị ngắn, bẹ nhỏ. Lá nón được khai thác vào độ tuổi lá còn  non, nhưng không non quá và đã đủ lớn để có bề dài lá và bề rộng mặt lá  đủ tiêu chuẩn của một chiếc nón. Lá nón khai thác đúng tiêu chuẩn là  những búp lá non chưa xoè ra, lá còn màu trắng, chưa có màu xanh lá, dài  trên 40cm.
 Khác biệt đầu tiên của nón Huế là ở lá nón. Các địa phương khác nhau, do  phong thổ và tập quán khác nhau, dùng các loại lá khác nhau để làm  nguyên liệu chính cho nón lá. Nếu như vùng lưu vực sông Đà, sông Thao ở  miền Bắc phổ biến dùng lá cọ, khu vực Nghệ An dùng lá gồi, còn có tên là  lá kè nam, vùng Bình Định dùng cây giang và lá kè nam để làm nón ngựa  Gò Găng, thì vùng Bình, Trị, Thiên lại dùng lá nón, còn có tên là lá  lụi. Nguồn cung cấp nguyên liệu lá cho nghề nón lá Huế là A Lưới, Nam Đông,  Hương Trà, đặc biệt là ở Nam Đông. Theo chủ lò sơ chế nguyên liệu lá nón  số nhà 30, đường Trần Phú, thành phố Huế thì lá nón được khai thác ở  Nam Đông dài, bẹ to, mỏng, mềm, lá nón được khai thác ở A Lưới dày,  cứng, ở Quảng Trị ngắn, bẹ nhỏ. Lá nón được khai thác vào độ tuổi lá còn  non, nhưng không non quá và đã đủ lớn để có bề dài lá và bề rộng mặt lá  đủ tiêu chuẩn của một chiếc nón. Lá nón khai thác đúng tiêu chuẩn là  những búp lá non chưa xoè ra, lá còn màu trắng, chưa có màu xanh lá, dài  trên 40cm.